| Lan tỏa hiệu quả từ các mô hình trên địa bàn dân cư | Lan tỏa hiệu quả từ các mô hình trên địa bàn dân cư | Thực hiện mô hình "Mỗi khu dân cư 1 công trình" do Ủy ban MTTQ VN huyện Đức Huệ phát động, gần 2 năm qua, trên khắp các khu dân cư của huyện Đức Huệ xuất hiện nhiều mô hình thiết thực và ý nghĩa. Qua đó tạo sức lan tỏa rộng rãi trong nhân dân, góp phần xây dựng huyện nhà ngày càng giàu đẹp, văn minh.
|
Để các mô hình thật sự phát huy hiệu quả gắn với Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" và phong trào "Cả nước chung tay vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau". MTTQ các xã, thị trấn đã lựa chọn việc làm cụ thể nhất, thực chất nhất.
Để tiếp tục duy trì và nâng chất các tiêu chí nông thôn mới, hướng đến nông thôn mới nâng cao, MTTQ xã Bình Hòa Nam thống nhất mỗi khu dân cư xây dựng 1 công trình liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh trật tự. Theo đó, khu dân cư cấp 1 thực hiện tuyến đường 19 kiểu mẫu "Sáng – xanh – sạch – đẹp" với chiều dài 1,5km. Khu dân cư ấp 2 thực hiện tuyến đường Thanh Hải "Ánh sáng an ninh" với chiều dài 2,65km. Khu dân cư ấp 3 thực hiện tuyến đường "Ánh sáng an ninh" đoạn ra nhà che bia ghi danh liệt sĩ. Để thực hiện có hiệu các công trình, MTTQ xã cùng Ban công tác mặt trận ấp 1 phối hợp chi bộ, ban quản lý ấp tuyên truyền, vận động bà con nhân dân cùng đóng góp kinh phí và ngày công lao động để trồng hoa, dọn vệ sinh và lắp đèn năng lượng chiếu sáng trên các tuyến đường đã chọn. 
Bà Lê Thị Cẩm Tú – CT MTTQ xã Bình Hòa Nam, nhận định: "Sau hơn 1 năm phát động thực hiện, các công trình tại 3 khu dân cư đều được duy trì và mang lại kết quả tốt. Đối với tuyến đường 19, hàng tháng bà con nhân dân trong ấp tích cực tham gia cùng Ban công tác Mặt trận ấp chăm sóc hoa, don vệ sinh, tỉa cành, nhặc rác thải. Ngoài ra, MTTQ xã cùng cả hệ thống chính trị cũng đã vận động mạnh thường quân lắp đặt 49 bóng đèn năng lượng, 29 trụ điện và và trồng hơn 350 cây hoa với tổng kinh phí hơn 108 triệu đồng và 15 ngày công lao động. Từ đó, tạo cảnh quang sáng – xanh – sạch – đẹp trên suốt tuyến đường dẫn vào ấp". Thông qua việc thực hiện các mô hình ở khu dân cư, góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong việc tích cực tham gia các phong trào thi đua do địa phương phát động, đặc biệt là thực hiện phong trào dân vận khéo gắn với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới nâng cao. Nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm của mỗi công dân lấy sức dân để lo cho dân, góp phần xây dựng thị trấn Đông Thành đạt chuẩn văn minh đô thị giai đoạn 2021-2025, Bà Trần Thị Huỳnh Như – CT MTTQ Việt Nam thị trấn Đông Thành, cho biết: các công trình được ban công tác mặt trận của 4 khu phố chọn thực hiện đều gắn với tiêu chí xây dựng thị trấn đạt chuẩn đô thị văn minh, nhằm góp phần nâng cao mức độ hoàn thành và đảm bảo chất lượng theo yêu cầu. Cụ thể, Khu dân cư khu phố 1 thực hiện công trình "Lắp hệ thống chiếu sáng tuyến đường từ Trung tâm văn hóa cũ đến bờ kè". Khu dân cư khu phố 2 chọn tuyến đường Lê Văn Rỉ làm công trình "Tuyến đường cờ đại đoàn kết". Khu dân cư khu phố 3 thực hiện công trình "Nạo vét, rãi đá tuyến kênh nhánh Cầu Sập". Khu dân cư khu phố 4 thực hiện công trình "Nâng cấp tuyến đường từ đường Châu Văn Liêm đến nhà ông 6 Mềm". Tổng kinh phí thực hiện các công trình là 70 triệu đồng, từ nguồn vận động xã hội hóa. Không dừng lại ở đó, UBMTTQ Việt Nam thị trấn Đông Thành còn phát huy hiệu quả các mô hình hỗ trợ giúp đỡ người nghèo, quảng bá đặc sản quê hương, như: "Cửa hàng thoát nghèo"; "Bảo trợ hộ nghèo đến suốt đời"; "Tuyến đường không rác"; "Đổi rác thải nhựa lấy nhu yếu phẩm"; " Nuôi gà thả vườn"; "Mỗi khu dân cư một công trình"; "Điểm bán hàng Việt"; "Quầy hàng sản phẩm thương hiệu quê hương Đức Huệ". Theo đánh giá của MTTQ huyện Đức Huệ, những công trình được các khu dân cư thực hiện thời gian qua, đã tạo khí thế thi đua sôi nổi, thực chất trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và nhân dân, nhất là làm nổi bậc mục đích ý nghĩa, tầm quan trọng của Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" và phong trào "Cả nước chung tay vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau" trong cộng đồng dân cư, góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từ đó phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và nội lực của cộng đồng dân cư, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ nghị quyết đảng bộ huyện đề ra. Như Huỳnh
| 13/09/2023 6:00 CH | Đã ban hành | | Phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên | Phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên | Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải đi đôi với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, khẳng định tính đúng đắn của học thuyết cách mạng và tính sáng tạo trong thực tiễn. Với quan điểm kết hợp giữa "xây" và "chống", lấy "xây" là chính, phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, khắc phục biểu hiện lệch lạc nhằm góp phần khẳng định tính đúng đắn trong phương thức lãnh đạo của Đảng để xây dựng Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh".
| 
Nêu gương là một trong những phương thức lãnh đạo có sức lan tỏa, dẫn dắt, truyền cảm hứng, thúc đẩy hành động cách mạng của Đảng ta đối với Nhân dân. Trong đó, việc phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu chính là yếu tố căn cốt mang tính tiên quyết trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nêu gương, noi gương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ giúp mỗi người tự khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế; mà còn góp phần lan tỏa những hành động, việc làm tốt để khích lệ, cổ vũ, động viên người khác học tập và làm theo, hướng con người tới các chuẩn mực chân - thiện - mĩ, các giá trị tốt đẹp và sự hoàn thiện bản thân trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nêu gương là một vấn đề quan trọng mang tính khách quan, tất yếu, là phương thức lãnh đạo khoa học, trí tuệ, nhân văn của Đảng ta trên cơ sở thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đối với sự liêm chính của một đảng cầm quyền. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: "Đảng ta lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên". Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Chỉ có sự gương mẫu, hy sinh, thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình thì đội ngũ đảng viên mới thuyết phục được đông đảo giai cấp công nhân đi theo cách mạng, thực hiện mục tiêu của cách mạng. 
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò to lớn của nêu gương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn luận về vấn đề này ở nhiều góc độ với tần suất lớn, Người từng dạy: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"(1); "Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng"(2). Đối với Đảng, quan điểm về nêu gương được cụ thể hóa bằng nhiều chủ trương, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên (3); trong đó, nhấn mạnh nêu gương là trách nhiệm, bổn phận và là đạo lý của người cán bộ, đảng viên trước Nhân dân. Nhờ có những chủ trương, quy định đúng đắn và kịp thời đó, ý thức trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên đã từng bước được nâng lên, tạo sự chuyển biến tích cực về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ; góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy kết quả thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên còn hạn chế, chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng tại Đại hội XIII chỉ rõ: "Thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên chưa trở thành nền nếp, hiệu quả chưa cao. Một số cán bộ vi phạm đến mức phải kỷ luật, xử lý hình sự, trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Việc đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ"(4). Chúng ta không khỏi đau xót trước những con số vi phạm phải xử lý kỷ luật đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII (5). Chúng ta không thể thờ ơ trước thông tin: Chỉ tính riêng năm 2022, BCH Trung ương thi hành kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng 4 đảng viên; Bộ Chính trị thi hành kỷ luật 11 tổ chức đảng; Ban Bí thư thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng, 43 đảng viên; có 10 Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng bị thi hành kỷ luật; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 101 tổ chức đảng và 5.356 đảng viên. Tính đến giữa nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xem xét cho thôi giữ chức vụ, cho nghỉ công tác, nghỉ hưu, bố trí công tác khác đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý; các địa phương cũng bố trí công tác và thực hiện chính sách đối với 22 trường hợp cán bộ sau khi bị kỷ luật. .JPG)
Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại bế mạc Hội nghị giữa nhiệm kỳ BCH Trung ương khoá XIII ngày 17-5-2023 chỉ rõ: "Các thế lực xấu, thù địch, phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ chúng ta, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta". Một trong những đòn chống phá của các thế lực thù địch, phản động vào quan điểm của Đảng về nêu gương chính là lợi dụng những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, thiếu rèn luyện, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống... để công kích, truyền bá những quan điểm sai trái, những luận điệu xuyên tạc nhằm "vô hiệu hóa" phương thức lãnh đạo bằng nêu gương bởi vì nó không chỉ làm tổn hại thanh danh của Đảng, mà còn ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Đảng trong thời kỳ mới; nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước "Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"(6), cùng với đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ vừa cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu dài là đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên thì nhiệm vụ không thể thiếu chính là đẩy mạnh các biện pháp khắc phục biểu hiện lệch lạc trong thực hành nêu gương; kiên quyết đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. 
Để thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, một trong những vấn đề tiên quyết là mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt, nắm kỹ, hiểu sâu nội dung nêu gương. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022, Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng khóa XIII về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới chỉ rõ: "Mọi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công của Đảng; giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân; học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất, lối sống; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng". Điều này nhất quán với nội dung được Đảng ta quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trên tất cả các mặt: Tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống, tác phong; tự phê bình và phê bình; quan hệ với nhân dân, trách nhiệm trong công tác; ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ. Có thể thấy, khi cán bộ, đảng viên nắm kỹ, hiểu sâu và thực hành tốt nội dung nêu gương trong cả ba mối quan hệ (đối với mình, đối với người, đối với việc) như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy sẽ đầy đủ, trọn vẹn và phát huy được hiệu quả thiết thực. Theo đó, "đối với mình": Không được tự cao tự đại, tự mãn, mà phải cần, kiệm, liêm, chính; phải là "Nhân, Trí, Dũng, Liêm"; bản thân mình phải làm gương trong công việc từ nhỏ đến lớn, thường xuyên học tập, rèn luyện, tự phê bình, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của bản thân về mọi mặt để tiến bộ. "Ðối với người": Phải chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết và có tình thương yêu, bao dung, độ lượng. "Đối với người": Trước hết và quan trọng nhất là đối với đồng chí, đồng sự, nhất là đối với cấp dưới và sau đó là đối với quần chúng nhân dân. Đối với việc, phải tận tâm, tận lực, có trách nhiệm, gương mẫu phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phải luôn giữ vững nguyên tắc "dĩ công vi thượng", phải "chí công vô tư", phải biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích của Tổ quốc, Nhân dân và của Đảng. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo bằng nêu gương ngày càng được bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh các quy định về nêu gương đã nâng cao tính pháp lý và trực tiếp điều chỉnh sự nêu gương của cán bộ cấp cao, tạo sự đồng bộ về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trong đó, Đảng ta nhấn mạnh bốn yêu cầu chủ yếu trong thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên mà trước hết chính là thực hiện nhất quán phương châm nêu gương "Trên trước, dưới sau", "Trong trước, ngoài sau", đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ có chức vụ cao, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cụm từ "Chức vụ càng cao càng phải gương mẫu" được khẳng định tới 7 lần, điều đó nghĩa là Đảng ta chú trọng hơn bao giờ hết trách nhiệm nêu gương của cán bộ có chức vụ cao, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức. Bởi "người có chức vụ càng cao" là người "đứng mũi, chịu sào", chịu trách nhiệm lớn nhất về tập thể mình phụ trách, cần phải có "tâm sáng - tri thông - chí bền" để giữ vững "liêm, chính", khắc phục khó khăn, triển khai hiệu quả các nhiệm vụ; vì vậy càng cần phải gương mẫu, tiên phong, đi đầu trong tập thể, cơ quan, đơn vị mình. Yêu cầu thứ hai là đề cao trách nhiệm tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng ta xác định: "Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng"(7). Đây là vấn đề mới, yêu cầu, đòi hỏi cao của Đảng, từ "phải" thực hiện quy định thành "nhu cầu", "mong muốn", "tự giác" thực hiện quy định nêu gương; nhằm tạo sự lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội - thực sự trở thành phong trào tự giác nêu gương trong toàn Đảng và trong quần chúng nhân dân. Để nêu gương là tự giác, là nhu cầu tự thân, không phải bắt buộc, không hình thức thì mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải thực sự "chí công, vô tư" trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; qua đó, sẽ tạo được sự đồng thuận và làm theo trong tập thể, cơ quan, đơn vị và quần chúng nhân dân. Yêu cầu thứ ba Đảng ta đặt ra là đề cao trách nhiệm nêu gương "Nói đi đôi với làm", chú trọng nêu gương việc "làm" của cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu theo tinh thần "7 dám", đó là: "dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung"(8). Và đối với trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên thì phải "dám nói" và "nói đi đôi với làm". "Dám nói" theo quan điểm của Đảng là: Nói đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không được nói sai, nói giảm, nói tránh, nói bừa mà phải nói trúng, nói những vấn đề thiết thực, nói đúng lòng mình. "Nói đi đôi với làm" là lời nói và việc làm phải gắn chặt với nhau; đã nói là phải làm, phải nhất quán từ nhận thức đến phát ngôn và hành động thực tiễn; nghĩa là nêu gương phải được biểu hiện sinh động cụ thể trong sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người. Do đó, để khuyến khích, động viên những cán bộ, đảng viên "dám nghĩ, dám nói, dám làm, trách nhiệm cao, hiệu quả công việc lớn", Đảng ta nhấn mạnh việc "Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội"(9). Có thể thấy, thực hiện tốt yêu cầu này chính là góp phần để nêu gương đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Yêu cầu thứ tư, điểm mới trong quan điểm của Đảng ta về đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên chính là phát huy vai trò phối hợp của các chủ thể trong kiểm soát quyền lực để thúc đẩy, đánh giá thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Việc kiểm soát quyền lực một mặt giúp ngăn ngừa khuyết điểm vi phạm, mặt khác nó chính là "chiếc gương soi" kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực chất yêu cầu này là tạo ra chính sách, quy định, chế tài, cơ chế, biện pháp để các chủ thể (Quốc hội, Hội đồng nhân dân; mặt trận Tổ quốc, báo chí, nhân dân…) ràng buộc, giám sát nhằm "nhốt quyền lực trong lồng cơ chế", bảo đảm cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý khi thực thi nhiệm vụ phải hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật cho phép, từ đó không ngừng tu dưỡng, rèn luyện bản thân, nêu gương trong thực thi công vụ. Và để đánh giá kết quả thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương, Đảng ta chỉ rõ: "Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên"(10). Những nội dung, yêu cầu trên đây nêu ra hết sức ngắn gọn, song để thực hiện tốt và toàn diện lại cần một quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu nghiêm túc, bền bỉ, nỗ lực, kiên quyết chiến đấu và chiến thắng những dục vọng, cám dỗ, cạm bẫy giăng bủa mọi lúc, mọi nơi; qua đó, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ ngày càng hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện, nhiều cá nhân nêu gương tốt sẽ góp phần xây dựng tập thể nêu gương, tổ chức đảng nêu gương, toàn Đảng nêu gương để xây dựng Đảng ta "là đạo đức, là văn minh", xứng đáng với sự tin yêu của Nhân dân. Gia Khánh Nguồn: https://www.bqllang.gov.vn
| 02/08/2023 3:00 SA | Đã ban hành | | Tiếp tục thực hiện tốt chính sách đối với người có công | Tiếp tục thực hiện tốt chính sách đối với người có công | Tư tưởng, tình cảm, tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương bệnh binh, liệt sĩ; với gia đình các thương bệnh binh, liệt sĩ và những người có công với đất nước không chỉ thấm đẫm tính nhân văn, thấm nhuần đạo lý truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", mà còn hiển hiện một tình thương yêu bao la, nhân ái của Người!
|
Ngày 2/9/1955, Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới đặt vòng hoa viếng các liệt sĩ tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh. Một trong những vấn đề mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, trăn trở đó là sự hy sinh, cống hiến tuổi thanh xuân của các chiến sĩ, thương binh, bệnh binh, liệt sĩ cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân. Có một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc như hôm nay một phần chính là nhờ những người con dũng cảm đã đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết; đã xả thân vì nghĩa lớn. Ghi nhận sự hy sinh cao cả đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: "Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt qua tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta"[1]. Vì thế, giữa bộn bề công việc của những ngày đầu nước nhà mới giành được độc lập, Người đã tri ân thân nhân các liệt sĩ và bày tỏ tấm lòng mình khi phát biểu: "Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ, cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó và tôi nhận các con liệt sĩ làm con nuôi của tôi"[2]. Đồng thời, bày tỏ tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với những người bị thương tật, những người đã không tiếc máu xương, cống hiến hết mình cho Tổ quốc bằng những việc làm thiết thực như tham gia "Hội giúp binh sĩ bị nạn" (sau đổi là "Hội giúp binh sĩ bị thương"); tặng chiếc áo rét của mình cho binh sĩ trong cuộc vận động "Mùa đông binh sĩ"; đề nghị các ban, ngành, đoàn thể Trung ương lấy ngày 27/7/1947 làm Ngày Thương binh toàn quốc đầu tiên (năm 1955 đổi thành Ngày Thương binh - Liệt sĩ), ký Sắc lệnh số 20/SL về chế độ hưu bổng thương tật đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng (16/2/1947); ký Sắc lệnh số 613/SLĐB tổ chức Bộ thương binh và Cựu binh, (tiền thân của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội) ngày 3/10/1947… .JPG)
Tình cảm, tấm lòng, lời kêu gọi đồng bào cả nước thể hiện tình thương yêu, trách nhiệm và bổn phận của mình đối với những thương bệnh binh, liệt sĩ chính là tâm nguyện của Người trong bức Thư gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức "Ngày thương binh toàn quốc" ngày 17/7/1947. Trong đó, Người không chỉ khẳng định rằng, "đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đã chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy"[3], mà còn "xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ.00)"[4]… Từ sau năm 1947, cứ đến dịp kỷ niệm Ngày 27/7 là Người lại gửi thư thăm hỏi, tặng quà, đi thăm các thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, viếng các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang liệt sĩ. Những bức thư của Người nhân dịp 27/7 năm 1948, 1951, 1952, 1954,1956, 1957, 1959…; những món quà thiết yếu (quần áo, khăn mặt, vải, thuốc men, chăn...), tiền lương tháng, tiền tiết kiệm của Người dành tặng các thương binh không chỉ làm sâu sắc hơn, cao cả hơn ý nghĩa của Ngày Thương binh - Liệt sĩ, bởi vì đó là một dịp để "tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái", "tỏ ý yêu mến thương binh", mà còn làm cho "kế sách" giúp thương binh của Người, với nội dung cụ thể như "chính quyền, đồng bào và các đoàn thể Nhân dân trong mỗi xã phải tuỳ theo cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em thương binh (…). Với lòng hăng hái và cố gắng của đồng bào, với sự nỗ lực của cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương, tôi tin chắc rằng công việc đón anh em thương binh về làng sẽ có kết quả tốt đẹp"[5] trở nên sinh động trong thực tiễn; trở thành một phong trào được triển khai sâu rộng, có ý nghĩa chính trị, tinh thần lớn lao. .JPG)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những chỉ dẫn của Người trong bản Di chúc để lại cho muôn đời sau, trong đó có lời căn dặn: "Công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man (…). Đầu tiên đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…). Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh". Đối với các liệt sĩ ở mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ cho họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét"[6] (những người có công) đã được Đảng, Nhà nước ta quán triệt, triển khai, nhất là sau khi miền Nam được giải phóng, Tổ quốc thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với thời gian, tư tưởng, tình cảm, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như những việc Người đã làm, những biện pháp thiết thực Người đề nghị để thực hiện tốt ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có công với cách mạng không chỉ thể hiện rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, đạo lý "sống ở đời và làm người", mà còn thu hút sự quan tâm, tham gia của mọi người, mọi ngành; từ Trung ương đến địa phương. Từ những chỉ dẫn của Người, từ những việc thiết thực Người đã khởi xướng và thực hành, Đảng và Nhà nước đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sĩ, về chính sách đối với người có công bằng nhiều chương trình, phong trào cụ thể, thiết thực. Đó chính là "huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến"[7] và coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, của hệ thống chính trị, vừa là trách nhiệm của toàn dân. Đó cũng chính là "hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú. Cân đối ngân sách để tiếp tục thực hiện việc nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, giải quyết căn bản chính sách đối với người có công; nâng cấp các công trình "đền ơn đáp nghĩa""[8] và "thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công; bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội"[9] theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, góp phần bảo đảm cho những người có công với cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt hơn… Có thể nói, chiến tranh đã lùi xa, song chính sách đối với người có công luôn được quan tâm, được bổ sung và thực hiện đồng bộ; công tác đối với người có công luôn được triển khai với nhiều hoạt động thiết thực, phù hợp điều kiện của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong đó, có việc xác nhận và quản lý chi trả chế độ theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng; đẩy mạnh việc tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ; huy động sự góp sức tự nguyện của mọi người, mọi ngành, mọi cấp để xã hội hóa công tác "Đền ơn đáp nghĩa"; thực hiện Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 25/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng và Chỉ thị số 368-CT/QUTW ngày 12/6/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội giai đoạn 2016-2020… Trong đó, có những hoạt động quét dọn vệ sinh, chăm sóc, lau dọn và thắp hương, nến, dâng hoa bày tỏ lòng thành kính tưởng nhớ, biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc tại các đền thờ, nghĩa trang liệt sĩ ở khắp mọi miền Tổ quốc; đến thăm hỏi, tặng quà các gia đình các thương bệnh binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và tạo điều kiện cho con em các gia đình có công với cách mạng được thụ hưởng những ưu đãi trong học tập, việc làm…; tổ chức khám bệnh, phát thuốc (thuốc bổ, thuốc điều trị bệnh cao huyết áp, hạ huyết áp, đau nhức xương khớp, tim mạch,…) cho thân nhân các gia đình chính sách, cho mẹ Việt Nam Anh hùng… 
Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người có công; việc thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng không chỉ được tiến hành vào dịp 27/7 hằng năm, mà thực tế còn được triển khai trong những dịp lễ, tết, những ngày kỷ niệm của đất nước, của các bộ, ban, ngành. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của đất nước, mà đó còn là một loại chính sách đặc biệt, thực hiện cho những đối tượng đặc biệt; không chỉ thể hiện sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước đối với người có công với cách mạng, mà còn làm cho truyền thống tốt đẹp, đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa" của dân tộc được tiếp nối, bồi đắp, góp phần nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc trên hành trình xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc./. Gia Nguyên Nguồn: https://www.bqllang.gov.vn
| 27/07/2023 11:00 CH | Đã ban hành | | Thầy Mai Thanh Tòng - Truyền lửa đam mê học tiếng Anh cho học sinh vùng sâu | Thầy Mai Thanh Tòng - Truyền lửa đam mê học tiếng Anh cho học sinh vùng sâu | Sinh ra và lớn lên ở quê hương Đức Huệ còn nhiều khó khăn, thầy Mai Thanh Tòng - giáo viên môn Tiếng Anh, Trường THCS Bình Hòa, xã Bình Hòa Nam, hiểu rõ về những thiệt thòi của học sinh (HS) nơi đây trong học môn Tiếng Anh. Do vậy, thầy luôn cố gắng truyền lửa đam mê học tiếng Anh cho HS, giúp giảm dần khoảng cách về điều kiện học tập so với các vùng thuận lợi khác. | 
15 năm gắn bó với nghề cũng là ngần ấy thời gian thầy Thanh Tòng nỗ lực, hết lòng vì HS thân yêu. Khi mới ra trường, được phân công về Trường THCS Mỹ Bình (nay là Trường THCS và THPT Mỹ Bình, xã Mỹ Bình), điều kiện ở xã biên giới còn nhiều khó khăn nhưng với tình yêu nghề, nhiệt huyết tuổi trẻ, thầy không nản lòng mà luôn đam mê với nghề. Thầy Thanh Tòng chia sẻ: "Từ nhà đến trường khoảng 30 phút đi xe máy nhưng tôi chọn ở lại nhà công vụ để được gặp gỡ, học hỏi thêm kinh nghiệm từ đồng nghiệp và dành nhiều thời gian, tâm huyết hơn với HS, nhất là truyền lửa đam mê học tiếng Anh cho các em". 
Xuyên suốt từ những ngày "chân ướt chân ráo" bước vào nghề, đến nay là giáo viên giỏi cấp tỉnh, dù ở trường cũ hay ngôi trường hiện tại, trong mỗi tiết dạy, thầy Thanh Tòng luôn cố gắng truyền cảm hứng học tập môn Tiếng Anh cho HS, bởi thầy hiểu rõ, có đam mê thì các em mới ra sức học tập. Tùy theo đối tượng HS, tinh thần học tập của lớp, thầy có phương pháp dạy phù hợp. Với HS học chưa tốt môn Tiếng Anh, thầy đặt những câu hỏi đơn giản, phù hợp năng lực để các em trả lời, giúp mạnh dạn, tự tin và dần yêu thích môn học hơn. Riêng HS khá, giỏi, thầy giúp các em phát huy năng lực với những câu hỏi khó, mang tính đánh đố. Ngoài ra, không khí tiết học vào cao trào, thầy cung cấp thêm những kiến thức nâng cao, cho HS làm các bài tập khó, giúp các em vượt qua giới hạn bản thân ở môn Tiếng Anh. "Nhờ những cách làm đó, HS còn yếu không có cảm giác bị bỏ rơi trong tiết học và HS giỏi không bị nhàm chán. Đó cũng là cách tôi "giữ chân" HS trong tiết học của mình" - thầy Thanh Tòng cho biết. Ngoài ra, thầy Thanh Tòng thường xuyên áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, tổ chức trò chơi, cho HS làm bài tập nhóm,... Nhờ vậy, tiết học tiếng Anh của thầy Thanh Tòng trở nên sinh động, giúp HS hứng thú học tập hơn. Đồng thời, thầy còn chia sẻ đến HS về vai trò của tiếng Anh trong cuộc sống, là công cụ quan trọng khám phá nhiều kiến thức mới, nhất là sự cần thiết của tiếng Anh trong nghề nghiệp tương lai, từ đó khơi dậy tinh thần học tập và niềm đam mê tiếng Anh của các em. Để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, thầy Thanh Tòng thường xuyên học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, cập nhật kiến thức mới và tích cực tham gia các hội thi về chuyên môn. Trong đó, tham gia Hội thi Giáo viên dạy giỏi THCS cấp tỉnh năm học 2022-2023 và thầy Thanh Tòng xuất sắc đạt giải nhì. Như Huỳnh
| 12/03/2023 2:00 CH | Đã ban hành | | Đảng viên trẻ Phan Hoàng Duy vẫn tình nguyện nhập ngũ dù là lực lượng dân quân thường trực | Đảng viên trẻ Phan Hoàng Duy vẫn tình nguyện nhập ngũ dù là lực lượng dân quân thường trực | Là lực lượng dân quân thường trực của xã tương đương với việc được công nhận hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ trong thời bình, tuy nhiên, với nhận thức của một đảng viên trẻ cần phải tiên phong, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ góp phần bảo vệ đất nước, anh Phan Hoàng Duy vẫn tình nguyện đăng ký lên đường nhập ngũ năm 2023.
|
Phan Hoàng Duy sinh năm 2002, ở ấp An Hòa, xã Bình Hòa Bắc, huyện Đức Huệ. Với vai trò là bí thư chi đoàn ấp An Hòa, Phan Hoàng Duy đã thể hiện bản lĩnh của tuổi trẻ, xung phong cùng anh trai là Phan Huỳnh Duy tham gia tích cực trong công tác phòng chống dịch covid-19 vào năm 2021, như: phục vụ khu cách ly, tham gia các chốt trực trên địa bàn xã, tăng cường lên xã biên giới để góp thêm lực lượng phòng chống dịch,… Ngoài ra, Hoàng Duy còn làm tốt công tác dân vận giúp dân sữa chữa nhà ở. 
Từ những nổ lực và cống hiến của mình, tháng 8/2021, 2 anh em Phan Hoàng Duy được vinh dự kết nạp đảng tại chốt phòng chống dịch covid-19. Đến tháng 2/2022, Hoàng Duy tham gia lực lượng dân quân thường trực của xã. Trong thời gian này, Duy luôn nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đầu năm 2023, Hoàng Duy đăng ký tình nguyện lên đường nhập ngũ. Nhắc đến Hoàng Duy, bà Võ Thị Hồng Gấm – Bí thư đảng ủy xã Bình Hòa Bắc, huyện Đức Huệ, nhận định: "Hoàng Duy là 1 thanh niên tiêu biểu của địa phương, tinh thần và thái độ trách nhiệm rất rõ ràng, em nhận thức được trách nhiệm của người thanh niên đối với địa phương là phải ra sức phục vụ, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đi bất cứ đâu Tổ Quốc cần. theo quy định thì em Duy không thuộc đối tượng đi nghĩa vụ quân sự, nhưng với nhiệt huyết của tuổi trẻ em đã tình nguyện tòng quân đợt này" Dù thuộc đối tượng không phải tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, song với trách nhiệm, lý tưởng của một công dân đối với Tổ quốc, Hoàng Duy vẫn tình nguyện viết đơn xung phong nhập ngũ. "Là 1 thanh niên, 1 đảng viên trẻ, em cũng có ước mơ, hoài bảo và lý tưởng cho mình. Nhưng nhớ lời dạy của Bác Hồ "đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên", em muốn được tiếp tục cống hiến sức trẻ khi tổ quốc cần"-Phan Hoàng Duy bộc bạch. Với tinh thần nhiệt huyết của tuổi trẻ, tự hào được sinh ra và lớn lên trên mãnh đất Đức Huệ anh hùng, Phan Hoàng Duy cùng 98 thanh niên ưu tú của huyện biên giới Đức Huệ đã hăng hái tiếp bước truyền thống cha anh đi trước, luôn nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi người thanh niên, đó là nhập ngũ là trách nhiệm, nghĩa vụ thiêng liêng của người thanh niên, góp sức, chung tay bảo vệ quê hương, đất nước. Như Huỳnh – Tấn Hữu
| 07/02/2023 4:00 SA | Đã ban hành | | Cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung – 1 trong những nhà giáo tiêu biểu được gặp mặt Thủ tướng Phạm Minh Chính | Cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung – 1 trong những nhà giáo tiêu biểu được gặp mặt Thủ tướng Phạm Minh Chính | Cùng với 400 nhà giáo tiêu biểu của cả nước, chiều 19/11, cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung – Giáo viên trường mầm non Mỹ Bình, huyện Đức Huệ cùng với 5 giáo viên tiêu biểu của tỉnh Long An đã có mặt tại chương trình gặp mặt các nhà giáo tiêu biểu nhân kỷ niệm 40 năm ngày Nhà Giáo Việt Nam (20/11/1982 – 20/11/2022) do Bộ GD&ĐT tổ chức tại Hà Nội.
|
Tham gia lễ kỷ niệm 40 năm, bên cạnh chương trình gặp mặt của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT với các nhà giáo tiêu biểu, cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung vinh dự là 1 trong 40 giáo viên tiêu biểu được gặp mặt Thủ Tướng Phạm Minh Chính tại văn phòng chính phủ. Cùng dự buổi gặp mặt có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn; Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung; các Thứ trưởng: Bộ GD&ĐT, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch; Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ. 
Được Thủ tướng Chính phủ quan tâm, dành thời gian gặp mặt các nhà giáo tiêu biểu, xuất sắc trong cả nước, đó là vinh dự, nguồn cổ vũ, động viên lớn lao để đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Long An, huyện Đức Huệ nói riêng, trên mọi miền cả nước nói chung tiếp tục nỗ lực phấn đấu, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, say mê học hỏi, đổi mới, sáng tạo thực hiện tốt hơn nhiệm vụ "trồng người" cao quý. Cô Tuyết Nhung là 1 trong nhiều thầy cô giáo không ngại khó khăn, hằng ngày bám trường, bám lớp để gieo con chữ cho học trò vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Các thầy cô với tinh thần trách nhiệm, tâm huyết đã tích cực, chủ động, tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không ngừng đổi mới sáng tạo trong dạy học, góp phần quan trọng vào đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước. Với những nổ lực phấn đấu của mình, năm học 2021-2022, cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung vinh dự được nhận bằng khen của Thủ Tướng Chính Phủ đã có thành tích trong công tác giáo dục và đào tạo góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc cùng nhiều phần thưởng cao quý khác. Như Huỳnh
| 20/11/2022 8:00 SA | Đã ban hành | | Tình yêu nghề, mến trẻ của cô giáo vùng sâu | Tình yêu nghề, mến trẻ của cô giáo vùng sâu | 23 năm gắn bó với nghề, trải qua bao thăng trầm, cô Nguyễn Thị Thúy Kiều, giáo viên Trường Tiểu học Lê Văn Rỉ (xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ) vẫn vẹn nguyên tình yêu nghề, mến trẻ. Bởi được đồng hành và dạy học sinh (HS) mỗi ngày là một niềm vui lớn đối với cô.
| 
Lớn lên trên mảnh đất quê hương Đức Huệ, cô Thúy Kiều hiểu rõ những khó khăn, vất vả và thiệt thòi của HS nơi đây. Mang theo hành trang kiến thức, lòng nhiệt huyết và tình yêu nghề, mến trẻ, cô bước vào nghề với quyết tâm cống hiến hết sức mình. "Về trường công tác năm 1999, khi đó trường còn rất khó khăn, có nhiều điểm lẻ, đường đi lại thì gian nan, lương giáo viên thấp nhưng tôi chưa bao giờ nản lòng. Bởi, đồng nghiệp thân thiện, nhiệt tình, đoàn kết, gắn bó với nhau và đặc biệt là HS ngoan ngoãn, chịu khó trong học tập" – cô Thúy Kiều trải lòng.
Trong quá trình giảng dạy, cô Thúy Kiều luôn nỗ lực hết mình để giúp HS hứng thú học tập. Cô thường xuyên sử dụng tranh, ảnh và các dụng cụ dạy học trong các tiết dạy giúp nội dung bài học thêm sinh động, trực quan; đồng thời liên hệ thực tế để HS dễ hiểu bài cũng như khắc sâu kiến thức. Cô Thúy Kiều kể: "Với HS năng động thì việc tạo hứng thú học tập khá đơn giản nhưng với HS thụ động thì ngược lại. Do vậy, không chỉ thay đổi phương pháp giảng dạy, tôi còn quan tâm đến từng em, đặc biệt là những em chưa nắm chắc kiến thức. Tôi thường tạo điều kiện, động viên các em phát biểu hoặc giao nhiệm vụ tự tìm hiểu một nội dung kiến thức nhỏ trong bài học mới, sau đó trình bày kết quả và tôi nhận xét, bổ sung cho các em. Nhờ cách làm này, HS năng động, tự tin và hứng thú học tập hơn". Bên cạnh đó, cô Thúy Kiều còn xây dựng đôi bạn học tập, nhóm học tập. HS ngồi cùng bàn giúp nhau học tập như dò bài, giải thích những phần bạn chưa hiểu nếu cả hai chưa hiểu thì nhờ sự trợ giúp các bạn trong nhóm. Từ thực tế, cô Thúy Kiều có thêm những sáng kiến kinh nghiệm và áp dụng giảng dạy để khắc phục hạn chế của HS trong học tập. Hiện cô đang áp dụng sáng kiến "Giúp HS đặt câu trong đoạn văn, bài văn". Cô cho biết: "Nhiều HS có ý tưởng bài văn tốt nhưng câu còn lủng củng, thiếu vốn từ. Do vậy tôi tập trung phát triển vốn từ và hướng dẫn cách đặt câu cho các em thông qua các bài văn hay, giải thích thêm những từ đồng nghĩa để chọn sử dụng phù hợp ngữ cảnh; đồng thời cho các em luyện tập và nhận xét giúp các em tiến bộ. Thông qua hoạt động này, các em không chỉ đặt câu hay trong đoạn văn, bài văn mà còn diễn đạt ý tốt hơn trong trò chuyện, phát biểu". Trong mỗi tiết dạy, cô Thúy Kiều còn lồng ghép giáo dục đạo đức, truyền thống lịch sử và kỹ năng sống cho HS. Trong đó, những nội dung liên quan tâm lý học đường, cách tự bảo vệ mình trước những nguy cơ,… được đặc biệt chú trọng. Cô chia sẽ: "HS được trang bị tốt kỹ năng sống sẽ mạnh dạn, tự tin và biết cách ứng phó với các tình huống trong cuộc sống hơn. Theo đó, tôi dạy các em thông qua việc kể những câu chuyện thực tế; đưa ra các tình huống để các em xử lý; tìm hiểu về những thay đổi của các em để tư vấn, hỗ trợ kịp thời,…". Không chỉ hết lòng với HS trong giảng dạy, cô Thúy Kiều còn quan tâm HS có hoàn cảnh đặc biệt. Với HS thuộc gia đình khó khăn, cô thông tin đến Ban giám hiệu để có hướng giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời. Riêng HS chưa ngoan, quá hiếu động, cô kiên nhẫn trò chuyện với các em trong những giờ ra chơi, giúp các em hiểu được đúng, sai trong hành động thường ngày của mình trên lớp học; đồng thời trao đổi, phối hợp phụ huynh trong nhắc nhở các em. Sự quan tâm HS của cô Thúy Kiều không dừng lại ở trách nhiệm mà còn là tình thương yêu chân thành dành cho "những đứa con" của mình. Vừa là cô giáo vừa là "người mẹ" nên cô Thúy Kiều luôn cố gắng để các em được học tập và phát triển toàn diện. Do vậy, cô không ngừng học hỏi và hoàn thiện mình mỗi ngày. Cô học từ đồng nghiệp, tự nghiên cứu học tập thông qua sách, tài liệu và đặc biệt là tham gia các cuộc thi giáo viên dạy giỏi. Với sự nỗ lực của mình, cô Thúy Kiều xuất sắc đoạt giải Ba Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, cấp tiểu học năm học 2021-2022 vừa qua. Lan Chi
| 18/11/2022 6:00 CH | Đã ban hành | | Thầy Nguyễn Văn Bay – học theo Bác để làm "Dân vận khéo" | Thầy Nguyễn Văn Bay – học theo Bác để làm "Dân vận khéo" | Nhớ lời Bác dạy: "Dân Vận khéo thì việc gì cũng thành công". Nên trong suốt thời gian công tác tại trường tiểu học Bình Hòa Hưng, huyện Đức Huệ, thầy Nguyễn Văn Bay – hiệu trưởng nhà trường đã lấy đó làm phương châm hành động, đóng góp một phần không nhỏ trong bề dày thành tích của nhà trường đến ngày hôm nay.
|
Không chỉ là 1 hiệu trưởng mẫu mực, thầy Bay còn là một Bí thư Chi bộ gương mẫu bởi sự khéo léo trong công tác dân vận. Thầy luôn là người đi đầu trong các phong trào của ngành và của nhà trường, luôn tuyên truyền thấu tình đạt lý cho nhân dân và giáo viên, nhân viên trong trường những chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước để rồi từ đó tạo được lòng tin với nhân dân và đồng nghiệp kính trọng. 
Trước đây, khi còn là Phó Hiệu trưởng của Trường, Thầy đã tận tình hướng dẫn giúp cho giáo viên vững vàng về chuyên môn, tạo sự tin yêu từ phía phụ huynh. Thầy thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ, giúp đỡ để đồng nghiệp hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đến cương vị Hiệu trưởng, thầy luôn tích cực tham mưu đề xuất với cấp ủy, chính quyền và đơn vị cấp trên quan tâm đầu tư kinh phí, trang thiết bị, đồng thời vận động xã hội hóa góp sức xây dựng trường ngày càng khang trang hơn, có khu vui chơi ngoài trời đẹp và rộng cho học sinh trải nghiệm. 
Trong 3 năm từ 2020 đến 2022, thầy Nguyễn Văn Bay đã vận động mạnh thường quân làm lối đi vào Trường bằng bê tông; tặng học bổng cho học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh khó khăn (bằng tiền mặt); tặng ba lô, tập, viết, sách giáo khoa; mì tôm, gạo; lồng đèn, bánh Trung thu; xe đạp với tổng số tiền hơn 381 triệu đồng. Song song đó, thầy còn tiên phong trong tham gia các cuộc vận động của ngành, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tham mưu xây dựng chuẩn mực cho Chi bộ, đẩy mạnh tuyên truyền học tập và làm theo Bác Hồ, gương mẫu, xây dựng chuẩn mực đạo đức, lối sống, tác phong làm việc, dám nghĩ, dám làm, nâng cao tinh thần đồng chí, đồng nghiệp, gắn các nhiệm vụ của nhà trường với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Có thể nói, từ những việc làm được cho thấy Thầy Nguyễn Văn Bay là một gương điển hình về "Dân vận khéo" trong ngành giáo dục để mọi người học tập và làm theo. Như Huỳnh
| 10/10/2022 6:00 SA | Đã ban hành | | Chủ tịch Hồ Chí Minh với tinh thần học và tự học | Chủ tịch Hồ Chí Minh với tinh thần học và tự học | Tự học và học tập suốt đời là luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định tạo nên trí tuệ. Bằng tấm gương tự học và học tập suốt đời, Bác Hồ đã để lại nhiều bài học và những kinh nghiệm quý báu cho các thế hệ noi theo.
|
Học thường xuyên, lấy tự học làm cốt Học tập chính là hoạt động tiếp thu tri thức của mỗi cá nhân, là tiền đề quan trọng dẫn tới sự phát triển ở mỗi con người. Quá trình học tập bao gồm học tại trường, lớp, ở những giai đoạn nhất định của cuộc đời và tự học suốt cả cuộc đời mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, còn sống còn phải học. Đây là biện pháp tốt nhất để nâng cao trình độ hiểu biết, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng. "Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc hậu, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình"(1). Trong học tập, cần kết hợp cả học tập ở trường, ở lớp và tự học. Bản chất của tự học là một quá trình học tập không trực tiếp có giảng viên. Tự học là lao động khoa học, vất vả hơn rất nhiều so với quá trình học có giảng viên, bởi người học phải độc lập xây dựng kế hoạch, phương pháp học tập, tự tìm hiểu, phân tích những kiến thức trong sách vở, tài liệu để tiến tới làm chủ tri thức. Nếu thiếu sự kiên trì, lòng quyết tâm và sự nghiêm túc của bản thân, thì sẽ không thể thực hiện được kế hoạch học tập do mình đặt ra. Chính việc tự học sẽ giúp mỗi người nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích vào cuộc sống. Và, tự học còn giúp cho mỗi người trở nên năng động, sáng tạo, không phụ thuộc vào người khác, từ đó hạn chế những khuyết điểm và hoàn thiện bản thân. Càng cố gắng tự học, con người càng trau dồi được nhân cách và tri thức. Để việc tự học đạt kết quả tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi người cần phải xác định mục đích, động cơ học tập đúng đắn. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải hiểu rõ: "Học để làm gì? Học để sửa chữa tư tưởng... Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành..."(2). Việc tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh có mục đích cuối cùng là làm cách mạng, giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì tự học, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam và đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi. Sự vận dụng sáng tạo chính là quá trình tự thích nghi, tự tìm tòi thâm nhập thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm, phát huy nội lực, và sâu xa hơn, đó còn là quá trình tự học tập, tự giáo dục để làm cho nhân cách cũng như năng lực của bản thân phù hợp với mục tiêu, lý tưởng, công việc. Khi tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản được tổ chức tại Thủ đô Mát-xcơ-va (Nga) vào tháng 8-1935, Bác Hồ đã khai rõ trong lý lịch: "Họ và tên: Lin. Trình độ học vấn: Tự học". Người cho rằng, việc học không chỉ có ở nhà trường, có lên lớp mới học tập... mà trong mọi hoạt động cách mạng, chúng ta đều phải học tập! Vậy, những ai cần phải học? Theo Bác Hồ, ai cũng phải học, không kể người sang hay hèn; giàu hay nghèo; không phân biệt nghề nghiệp, giới tính, tôn giáo, dân tộc... Khi đã xác định việc học là một nhu cầu thì tự giác ai cũng phải học. Người cho rằng, trong cuộc sống có rất nhiều vấn đề cần quan tâm, nếu thấy cái gì học cái ấy thì chúng ta chỉ thu được một mớ kiến thức hỗn tạp, không có tác dụng với chính người học và cũng không đủ thời gian để học, hiểu hết tất cả. Do đó, ngoài việc học ở nhà trường theo chương trình quy định, chúng ta phải căn cứ vào trình độ nhận thức, công việc đang đảm nhiệm và vị trí của bản thân để lựa chọn những điều cơ bản, thiết thực, những vấn đề cần cho lĩnh vực công tác đang đảm nhiệm hoặc nhu cầu của mình để học. Hơn nữa, vấn đề cốt lõi nhất của việc tự học là để nâng cao hiểu biết và để áp dụng những kiến thức đó vào làm việc, "học phải đi đối với hành". Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích. Học những điều quá cao xa, không sát thực tế công việc chuyên môn của bản thân trong khi thời gian dành cho tự học quá ít, việc học đó cũng chỉ để "trang trí", cho "oai" mà thôi. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý mỗi người phải học tập với thái độ nghiêm túc, hết sức khiêm tốn, thật thà, biết đến đâu nói đến đó, không được tự cho mình là đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Bác nghiêm khắc phê phán tệ giấu dốt, lười biếng học tập, tự cao, tự đại, cho mình là giỏi nhất thiên hạ. Người nói: "Cái gì biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập". Tính khiêm tốn yêu cầu người ta không được thỏa mãn với vốn kiến thức và thành tích đã đạt được. Trong khi học "phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi "vì sao", đều phải suy nghĩ kỹ càng xem có hợp với thực tế không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn"(3).
Tự học trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi Phương pháp tự học của Bác Hồ là: Muốn nâng cao kiến thức trong quá trình tự học, mỗi người cần phải biết cách tận dụng triệt để thời gian và những điều kiện, phương tiện có sẵn trong xã hội, như thư viện, câu lạc bộ, sách báo, viện bảo tàng, các buổi nói chuyện, hội thảo,... Ngoài ra, mỗi người cần tranh thủ sự giúp đỡ, hướng dẫn chỉ bảo của bạn bè, đồng nghiệp và thực hiện phương châm học ở mọi lúc, mọi nơi, học trong khi giao thiệp, trong công việc hằng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ, trong kinh nghiệm thành công cũng như thất bại và học trong công tác vận động quần chúng. Người chỉ rõ: "Học ở đâu? Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn"(4). Chính việc thông qua học tập, tiếp xúc với nhân dân mà cán bộ, đảng viên có điều kiện gần gũi, nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó tham mưu, đề xuất tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Cuộc sống là một trường học thực tế sinh động, là nơi để "thực hành" những điều đã học. Mỗi ngày phải học hỏi thêm được những điều mới mẻ. Học đến đâu, luyện tập và thực hành đến đó. Trong lao động, làm việc là quá trình tự học tập, tích lũy, bổ sung kinh nghiệm, đúc kết kiến thức từ thực tiễn, và phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm. Trong suốt những năm tháng hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác vừa lao động kiếm sống, vừa tìm mọi cách và tận dụng mọi lúc, mọi nơi để tự học, nhất là học tiếng nước ngoài. Có lần nói chuyện với thanh niên, Bác cho biết: Để học được ngoại ngữ, phải kiên trì mỗi ngày học thuộc mười từ. Hằng ngày, trước khi thức dậy, Bác viết những từ mới vào một mảnh giấy, dán vào chỗ hay nhìn thấy nhất, có khi viết lên cánh tay để khi vừa làm vừa nhẩm học, đến khi chữ mờ hết thì cũng đã thuộc. Lại cả khi đi đường, Bác cũng nhẩm bài học. Ban đêm, khi chưa ngủ, Người lấy tay viết mò những chữ khó xuống chăn cho kỳ nhớ mới thôi và thế là đã học thêm được vài từ mới. Bác có một nguyên tắc là, học đến đâu, luyện tập và thực hành đến đó, học được chữ nào là tìm cách ghép câu để dùng ngay, cho nên sau một thời gian ngắn, Bác viết được báo và sách bằng tiếng nước ngoài. Bằng cách đó, dần dần Bác đã học được rất nhiều ngoại ngữ. Để tự học đạt kết quả tốt, theo Bác phải có tinh thần vượt gian khổ để học tập. Thời gian sống ở Thủ đô Pa-ri (Pháp), Bác chỉ thuê phòng trọ nhỏ trong một khách sạn rẻ tiền, mỗi sáng nấu cơm trong một cái nồi nhỏ đặt trên ngọn đèn dầu. Cơm ăn với một con cá mắm hoặc một ít thịt, ăn một nửa còn một nửa dành đến chiều. Có khi một miếng bánh mì với một miếng pho-mai là đủ ăn cả ngày. Mùa đông lạnh, buổi sáng trước khi đi làm, Bác để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn, chiều về lấy ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét. Thường thường, Bác chỉ làm việc nửa ngày vào buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện hoặc dự những buổi nói chuyện. Tối đến, Bác đi dự các cuộc mít-tinh và thường xuyên phát biểu ý kiến, khéo lái những vấn đề thảo luận sang vấn đề thuộc địa. Bác làm quen với những nhà chính trị, nhà văn để nâng cao trình độ chính trị, văn học của mình, đồng thời làm phong phú thêm vốn từ ngữ mới và cũng là điều kiện để vận dụng những từ đã học, trau dồi thêm vốn hiểu biết của mình về ngoại ngữ. Sau này, trên cương vị cao nhất của Đảng và Nhà nước, dù bận trăm công nghìn việc, khi tuổi cao, sức khỏe giảm, Bác Hồ vẫn không ngừng tự học tập, đọc thêm nhiều tài liệu, sách báo trong nước và nước ngoài. Bác luôn khuyên cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập để có trình độ hiểu biết mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng công tác. Cần tự học để nâng cao trình độ của bản thân, coi đây là tiêu chuẩn, giá trị đạo đức của mỗi người và là nhu cầu, thói quen hằng ngày của cán bộ, đảng viên. Những cán bộ, đảng viên lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên cập nhật thông tin mới, hiểu biết mới cũng là một biểu hiện suy thoái về đạo đức. Năm 1966, trong một buổi nói chuyện với đảng viên mới của Hà Nội, Người nhắc nhở: Thời kỳ bí mật, điều kiện học tập của đảng viên rất khó khăn: thiếu thầy, thiếu sách, thiếu tự do, nhưng cán bộ và đảng viên vẫn quyết tâm vì cách mạng mà học. Bây giờ điều kiện thuận lợi nhiều, cho nên các cô, các chú càng phải ra sức học tập cho tốt,... "Bác thường nghe nói có đồng chí 40 tuổi đã cho mình là già nên ít chịu khó học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng"(5). Tấm gương cao đẹp về tư tưởng và tinh thần tự học Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng mẫu mực về tinh thần tự học, lấy tự học làm cốt, làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ mọi mặt của bản thân. Song tự học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một sự ngẫu hứng, tùy ý mà việc tự học của Người đã trở thành một khoa học, một nghệ thuật, một triết lý nhân văn sâu sắc với một kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, khoa học; với một ý chí và quyết tâm bền bỉ, dẻo dai, tinh thần sáng tạo, tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để học. Những lời chỉ dẫn quý báu, những bài học kinh nghiệm sâu sắc rút ra từ chính tấm gương tự học bền bỉ của Người đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển nhanh chóng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên cần phải liên tục bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực để thích ứng với những biến đổi của xã hội, nếu không sẽ bị tụt hậu. Mặt khác, con người luôn ý thức về tương lai, chú trọng năng lực suy nghĩ, năng lực lý giải cho tương lai của mình. Để có được những năng lực ấy, mỗi người phải học tập không ngừng, học tập liên tục, học tập suốt đời thông qua nhiều hình thức, nhưng tự học là điều rất quan trọng, và vấn đề tự học trở thành một yêu cầu cấp bách, bắt buộc đối với mỗi cán bộ, đảng viên và từng người lao động. Thậm chí tự học quyết định sự thành bại của từng người trước những đòi hỏi ngày càng cao của nền sản xuất, của xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII nêu rõ, cần phát huy mạnh mẽ tinh thần tự học, bảo đảm thời gian tự học, tự nghiên cứu cho mọi người, và đặt ra một yêu cầu: "Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân nhất là trong thanh niên"(7). Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 24-8-1999 và Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13-4-2007 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, trong đó xác định xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04-11-2013, được thông qua tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đề cao nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Ngày 30-10-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Nghị quyết chỉ rõ, một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là: "Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước"(7). Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự học tập để nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt, và coi tự học là nhu cầu, thói quen, hành vi hằng ngày, là một tiêu chuẩn, một giá trị đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Tinh thần, ý chí tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay và cả mai sau vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa giáo dục hết sức sâu sắc đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo của dân tộc ta. Tư tưởng và tinh thần tự học của Người mãi mãi tỏa sáng, soi rọi cho mỗi chúng ta phấn đấu, rèn luyện, tự vươn lên trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện bản thân để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./. (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 9, tr. 554 (2) Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr. 76 (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 500 (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 50 (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 92(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Hà Nội, 1997, tr. 41 (7) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà nội, 2016, tr. 28 Gia Khánh Theo Tạp chí Cộng sản
| 03/10/2022 3:00 SA | Đã ban hành | | Tự hào về lịch sử, vững bước xây dựng tương lai | Tự hào về lịch sử, vững bước xây dựng tương lai | Tỉnh Long An có vị trí chiến lược tiếp giáp trung tâm đô thị lớn nhất của cả nước - TP.HCM, cửa ngõ của Đồng bằng sông Cửu Long, có biên giới quốc gia và các đường huyết mạch trọng yếu. Vùng đất Chợ Lớn - Tân An (Long An ngày nay) là chiếc nôi sản sinh ra những người con ưu tú, có nhiều cống hiến cho đất nước, dân tộc: Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân, Nguyễn Hữu Thọ, Trần Văn Giàu, Trương Văn Bang,… Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân Chợ Lớn - Tân An thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ của Đảng gắn với những trận đánh như Giồng Dinh, Láng Le - Bàu Cò, Hiệp Thạnh,… và xây dựng, củng cố nhiều căn cứ địa như Vườn Thơm - Bà Vụ, Đông Thành, Đồng Tháp Mười,...
|
Long An - Kiến Tường cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 buộc Pháp thừa nhận thất bại và một nửa đất nước độc lập. Hưởng ứng Đồng khởi, Đảng bộ Long An đã lãnh đạo toàn dân, đánh địch toàn diện, tiến tới thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng, quy tụ, tập hợp các giai cấp, kết hợp các trận đánh và các mũi đấu tranh chính trị, binh vận, bẻ gãy Kế hoạch Xta-lây Tay-lo trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, trong chiến lược "chiến tranh cục bộ" năm 1966-1967, phong trào toàn dân đánh Mỹ, tinh thần diệt Mỹ và cách đánh thắng Mỹ tại Long An càng dâng cao, tiêu biểu có Vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến Cần Đước là bước phát triển tầm cao của quân dân Long An. Thành tích vượt bậc của Long An được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ghi nhận và phong tặng cho Long An lá cờ vẻ vang ghi 8 chữ vàng: "Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc" tại Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần thứ 2, ngày 17/9/1967. Niềm tự hào và sự cổ vũ kịp thời này đánh dấu bước trưởng thành của Long An trong công tác lãnh đạo, tổ chức quân, dân đánh giặc, giữ nước. Tinh thần chiến đấu "Trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc" được toàn quân, toàn dân Long An "xốc tới", cùng cả nước làm nên cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", "Việt Nam hóa chiến tranh", buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Paris năm 1973, đồng tiến lên làm nên Chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Sau năm 1975, hòa vào hoàn cảnh lịch sử mới, những năm 1976 - 1985, quân dân Long An đảm nhiệm xuất sắc việc hàn gắn vết thương chiến tranh, tập trung khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, bảo vệ vững chắc biên cương, làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Từ năm 1980, phẩm chất "Trung dũng, kiên cường, toàn dân đánh giặc" được Đảng bộ, quân và dân Long An tiếp tục phát huy, kiến tạo bằng tư duy đột phá, biến cái khó thực hiện thành hiện thực. Chủ trương táo bạo "phá rào" của Long An đã góp phần thuyết phục được sự đồng thuận của Trung ương trong việc tiến hành cải tiến thu mua, phân phối; xóa bỏ chế độ cung cấp tem phiếu, bù giá vào lương và áp dụng giá bán thỏa thuận. Kiên cường tiến công, khai mở vùng trũng Đồng Tháp Mười trở thành vựa lúa của tỉnh và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Long An trở thành hình mẫu có sức lan tỏa về đột phá tư duy kinh tế mới, góp phần cùng cả nước hình thành, thúc đẩy đổi mới kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi trì trệ, khủng hoảng kinh tế. Ghi nhận thành tích đó, năm 1985, Long An vinh dự được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Đảng, Nhà nước ta. Quyết tâm "Trung dũng, kiên cường", bước vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, nỗ lực, phấn đấu thực hiện các Nghị quyết Đại hội của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đạt những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 9,11%/năm. Các chương trình đột phá, công trình trọng điểm đạt kết quả quan trọng. Chương trình Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp được tập trung thực hiện. Chương trình Đầu tư xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực, diện mạo nông thôn, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn nâng cao. Chương trình Huy động mọi nguồn lực xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông phục vụ phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh và 3 công trình trọng điểm đã phát huy hiệu quả tích cực. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, kết cấu hạ tầng văn hóa - xã hội ngày càng hoàn thiện, an sinh xã hội luôn được đảm bảo. Công tác quốc phòng - an ninh - nội chính được tăng cường; hoạt động đối ngoại mở rộng, đa dạng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) gắn với thực hiện các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương; việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử quý báu "Trung dũng, kiên cường" thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Long An quyết tâm kề vai sát cánh, biến khát vọng phát triển tỉnh nhà phồn vinh, hạnh phúc thành hành động cụ thể, bằng những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm: Khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tăng cường thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, nội chính và đối ngoại. Phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, tập trung thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII), Kết luận 21-KL/TW (khóa XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kỷ niệm 55 năm Ngày tỉnh Long An được phong tặng danh hiệu "Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc" (17/9/1967 - 17/9/2022), nhớ về truyền thống lịch sử, cội nguồn với những hy sinh cao đẹp của cha ông cho quê hương, đất nước, để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ Long An thêm tự hào về dân tộc, biết ơn và trân trọng lịch sử, vững tin xây dựng tương lai. Phát huy truyền thống độc lập, tự chủ, tự cường đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Long An cùng đồng tâm, hiệp lực, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, thi đua lao động sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra, đột phá để xây dựng tỉnh nhà ngày càng giàu mạnh, phát triển toàn diện và bền vững, xứng đáng là một trong những tỉnh đi đầu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long./. Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy - Hoàng Đình Cán
| 18/09/2022 9:00 SA | Đã ban hành | | Sự độc đáo trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh | Sự độc đáo trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh | Khi quyền con người, quyền bình đẳng giữa các dân tộc là chỉ số quan trọng về trạng thái văn minh của nhân loại thì Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần thúc đẩy lịch sử nhân loại tiến lên.
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2.9.1945 (Ảnh: TL) Cách đây 77 năm, ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tới nay, chúng ta vẫn thấy áng văn lập quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều điểm độc đáo, sáng tạo. Đặc biệt trong hoàn cảnh ra đời Dọc theo chiều dài lịch sử, những bậc tiên hiền đã để lại nhiều kiệt tác mang tầm vóc và ý nghĩa của bản tuyên ngôn độc lập như Nam quốc sơn hà (năm 1077) và Bình Ngô đại cáo (năm 1428) nhưng phải đến năm 1945, một tác phẩm chính danh là Tuyên ngôn độc lập mới được Hồ Chí Minh soạn thảo. Do tính chất thời đại, bản Tuyên ngôn độc lập có đối tượng hướng tới rất rộng rãi: Toàn thể nhân dân Việt Nam và mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có cả các nước lớn và các thế lực đang lăm le cướp đi nền độc lập vừa giành được của dân tộc Việt Nam. Có thể khẳng định: Đây là tuyên bố ngoại giao đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự đặc biệt của Tuyên ngôn độc lập còn nằm ở tình cảm, tâm trạng của người viết. Là nhà thơ, nhà văn, nhà báo lão luyện với hàng ngàn trang viết nhưng lần này, Hồ Chí Minh đã "không giấu nổi sự sung sướng" khi được thảo áng văn lập quốc ở mảnh đất Thăng Long. Chứa đựng trong đó là niềm hạnh phúc vô hạn của người đứng đầu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nay đã thành công và của nhà tư tưởng được đúc kết thành lời những quan điểm của mình về nền độc lập thiêng liêng của Tổ quốc. Giấc mơ thường trực về cảnh tượng "sao vàng năm cánh mộng hồn quanh" của Người đã tạo nên cảm xúc mãnh liệt nơi ngòi bút. Quá trình soạn thảo Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh cũng hết sức đặc biệt: Suy ngẫm, "hoài thai" rất lâu mà viết lại rất nhanh. Là người có niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi của cách mạng và có khả năng dự đoán tương lai, trong hơn 3 thập niên hoạt động cứu nước, chắc chắn Hồ Chí Minh đã nhiều lần suy ngẫm về thời khắc thiêng liêng này. Trên thực tế, Người chính thức soạn thảo Tuyên ngôn độc lập từ ngày 28.8.1945 - sau khi Chính phủ lâm thời được thành lập và Người được bầu làm chủ tịch. Điều kiện lịch sử phức tạp đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng tuyên bố về nền độc lập của mình trước khi quân Đồng minh đổ bộ vào tước vũ khí của Nhật. Do suy ngẫm từ lâu nên dù viết trong thời gian ngắn, từng ý tứ, câu chữ trong Tuyên ngôn độc lập vẫn đạt "độ chín" cả về tư tưởng lẫn thủ pháp nghệ thuật. Tính tiên phong của nhà tư tưởng tầm cỡ Là áng văn lập quốc, Tuyên ngôn độc lập chứa đựng nhiều thông điệp quan trọng nhưng tất cả đều xoay quanh trục duy nhất: Nền độc lập chính đáng, không thể bác bỏ của dân tộc Việt Nam. Với tầm nhìn của một chính khách lão luyện, Hồ Chí Minh hiểu rằng: Con đường đi đến độc lập - tự do đã đầy máu và nước mắt nhưng làm cho các nước khác, nhất là các nước lớn, thừa nhận và tôn trọng nền độc lập đó, cũng hết sức khó khăn. Vì thế, trong Tuyên ngôn độc lập, điều quan trọng nhất là Hồ Chí Minh phải đưa ra cơ sở pháp lý về quyền độc lập của Việt Nam. Người đã mở đầu áng văn lập quốc bằng những câu trích từ Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp về quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người. Từ đó, Người nâng quyền con người đã được thừa nhận trong xã hội phương Tây thành quyền dân tộc: "Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Bằng cách suy rộng ra, Hồ Chí Minh gián tiếp khẳng định trong thời đại chống đế quốc, thực dân, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là cuộc đấu tranh chính nghĩa. Giá trị thời đại của bản tuyên ngôn nằm ở đó. Sự "suy rộng ra" của Hồ Chí Minh ở thời điểm năm 1945 còn thể hiện tính tiên phong của một nhà tư tưởng tầm cỡ vì lúc này, quyền dân tộc chưa được các công ước quốc tế đề cập. Phải hơn 20 năm sau, vào năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị mới khẳng định: "Tất cả các dân tộc đều có quyền dân tộc tự quyết" và gần 50 năm sau, Tuyên bố Vienna và Chương trình hành động năm 1993 của Liên Hiệp Quốc mới ghi rõ: "Việc khước từ quyền dân tộc tự quyết là sự vi phạm nhân quyền". Sự "suy rộng ra" của Hồ Chí Minh còn thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Nếu văn hóa phương Tây đề cao con người cá nhân thì văn hóa phương Đông đề cao con người cộng đồng. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã lấy dân tộc làm bản thể, thay vì lấy cá nhân làm bản thể. Quan điểm của Người đã thể hiện truyền thống văn hóa phương Đông: Quyền lợi cá nhân phải gắn kết và đặt dưới quyền lợi cộng đồng, dân tộc. Khi quyền con người, quyền bình đẳng giữa các dân tộc là chỉ số quan trọng về trạng thái văn minh của nhân loại thì Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã góp phần thúc đẩy lịch sử nhân loại tiến lên. Sự độc đáo trong hình thức thể hiện Là tác phẩm ra đời giữa thế kỷ 20, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc và tính hiện đại. Trong lịch sử nước ta, các tác phẩm mang tầm vóc và ý nghĩa của bản tuyên ngôn độc lập như Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo đều được viết bằng tiếng Hán. Hồ Chí Minh là người đầu tiên viết Tuyên ngôn độc lập bằng tiếng Việt. Xác định rõ câu hỏi "viết cho ai", từ ngữ, hình ảnh trong bản tuyên ngôn đều thuần Việt, giản dị và dễ hiểu đối với đông đảo quần chúng. Không dừng lại ở cương vực dân tộc, Tuyên ngôn độc lập còn có đích đến là đông đảo các quốc gia trên thế giới nên cách lập luận và hành văn cũng rất hiện đại. Chỉ vẻn vẹn hơn một nghìn chữ, bản Tuyên ngôn độc lập có sức mạnh của lẽ phải, phù hợp với lối tư duy "duy lý" của người phương Tây. Để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đưa ra căn cứ pháp lý là những định đề mang tính chân lý trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp về quyền tự do của con người. Bằng phương pháp "dùng gậy ông đập lưng ông", Hồ Chí Minh vừa đẩy đối phương vào thế khó phản bác, vừa tranh thủ được sự đồng tình rộng rãi của dư luận thế giới. Sự độc đáo trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh nằm ở cách Người thể hiện văn bản. 77 năm đã trôi qua nhưng không ai có thể quên chi tiết: Sau khi đọc xong đoạn mở đầu của tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh bất ngờ dừng lại hỏi: "Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?" Câu hỏi bật ra hết sức tự nhiên từ trái tim của con người hết lòng trọng dân và yêu dân chứ không phải là "thủ pháp" nằm sẵn trong kịch bản của một nhà hùng biện đại tài nhằm thu phục nhân tâm. Trong dòng chảy bất tận của thời gian và sự bùng nổ thông tin của xã hội hiện đại, dấu ấn của sự kiện, của con người dường như trở nên rất mong manh. Vì thế, sức sống trường tồn của bản tuyên ngôn độc lập cũng là điều rất đặc biệt. TS Modagat Ahmed, nguyên Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đã có nhận định sâu sắc: "Có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống, và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó". Gia Nguyên Nguồn: https://thanhnien.vn/su-doc-dao-trong-tuyen-ngon-doc-lap-cua-chu-tich-ho-chi-minh-post1491486.html
| 31/08/2022 8:00 SA | Đã ban hành | | Ngày Quốc khánh 2/9 - Ngày hội lớn, trang sử vẻ vang chói lọi nhất của dân tộc Việt Nam | Ngày Quốc khánh 2/9 - Ngày hội lớn, trang sử vẻ vang chói lọi nhất của dân tộc Việt Nam | Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - cuộc cách mạng thần kỳ của đất nước ta, dân tộc ta đến nay vừa tròn 77 năm. Đây được xem là một kỳ tích của Việt Nam trong thế kỷ XX, mở ra một trang sử vẻ vang chói lọi vào bậc nhất, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc trong suốt chiều dài mấy ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam.
| Tháng 8/1945, chớp thời cơ chiến lược "ngàn năm có một", dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa "long trời, lở đất", nhất tề nổi dậy đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành chính quyền trong cả nước, thiết lập nên Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, dựng lên một mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử dân tộc.
Chỉ trong vòng 15 ngày, nhân dân ta đã làm cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị hàng ngàn năm của chế độ phong kiến, gần trăm năm của thực dân Pháp, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn, đã đưa nước ta từ một thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, có tên trên bản đồ thế giới, nhân dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than, trở thành chủ nhân của đất nước. Trong thời khắc vận mệnh dân tộc "ngàn cân treo sợi tóc", trước những khó khăn chồng chất cùng sự phá hoại điên cuồng của thù trong, giặc ngoài, vậy mà mới 15 tuổi, với khoảng 5.000 đảng viên, Đảng ta đã tập hợp được toàn dân đồng lòng đứng dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của "Bộ tham mưu" biết tạo thế, biết tạo lực, biết chớp thời cơ,... song quan trọng nhất vẫn là bài học về sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Bác Hồ kính yêu. Thành quả vĩ đại và những bài học lịch sử vô giá của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở thành hành trang, động lực thôi thúc toàn dân và toàn quân ta, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành các cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ trong suốt 30 năm, đánh thắng các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược; lập nên những chiến công hiển hách mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Ðiện Biên Phủ năm 1954 "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" và Ðại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tinh thần và ý chí quật cường của Cách mạng Tháng Tám tiếp tục soi đường, cổ vũ nhân dân ta đạp bằng mọi khó khăn, thử thách để giành thắng lợi rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới. Ðất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Ðồng bào ta có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Uy tín và vị thế nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế Tuy nhiên, chúng ta càng tự hào về Đảng ta bao nhiêu thì càng không khỏi băn khoăn, lo lắng về một bộ phận cán bộ, đảng viên ngày càng thoái hóa, biến chất, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có những suy nghĩ và hành động đi ngược lại bản chất cách mạng trong sáng của người đảng viên. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Thời gian gần đây, cơ quan chức năng đã tập trung điều tra, xử lý nghiêm nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn, xảy ra trong lĩnh vực y tế, quản lý, sử dụng đất đai, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp,... Tình trạng tham nhũng còn diễn ra ngay trong một số cơ quan bảo vệ pháp luật, người đại diện cho công lý xã hội; tình trạng "tham nhũng vặt" qua nạn hối lộ trong dịch vụ hành chính, dịch vụ công như doanh nghiệp phải "bôi trơn", "lót tay" để được thuận lợi trong việc làm; gây khó khăn, bức xúc cho người dân. Thậm chí, một số người đã "tự chuyển hóa", biến chất, móc nối, câu kết với các thế lực thù địch hoạt động chống Đảng, Nhà nước; tuyên truyền, tán phát các quan điểm sai trái, phản động; phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối đổi mới, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội và đất nước; hướng lái đất nước đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay là cần phải có biện pháp quyết liệt, mạnh mẽ hơn nữa trong phòng, chống và ngăn chặn một cách thực sự hiệu quả những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức vụ; tiếp tục chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức nhằm làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, càng đòi hỏi phải áp dụng một cách có hiệu quả các bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thực tiễn để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ KT - XH đề ra. Sự nghiệp đổi mới chỉ có thể hoàn thành khi Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, trí tuệ và bản lĩnh, có phương thức lãnh đạo khoa học và thiết thực. Khi phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khi ý Đảng và lòng dân thống nhất, hòa quyện vào nhau, trong đó nhiệm vụ quan trọng là đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị, gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm làm chuyển biến trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên phấn đấu là một tấm gương trong tổ chức, cộng đồng dân cư nơi mình sinh hoạt, học tập; phải thực sự là người mẫu mực, nói đi đôi với làm, đặt quyền lợi của tập thể lên trên quyền lợi cá nhân. "Mỗi cán bộ và đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" như lời căn dặn của Bác Hồ trong Di chúc. Kỷ niệm 77 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2/9, trong bối cảnh bên cạnh những điều kiện thuận lợi là cơ bản, đất nước đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn, nhất là phải tiếp tục đối phó với dịch Covid-19. Tình hình đó đòi hỏi các cấp, các ngành, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân càng nhận thức sâu sắc hơn con đường lý tưởng cách mạng - mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa bao giờ cũng đại diện cho tinh thần tiến công, cho những gì tiến bộ và tốt đẹp đi đến tương lai tươi sáng của dân tộc để không dao động, không ngả nghiêng, kiên quyết đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời, phát huy tinh thần và ý chí của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng tâm hiệp lực, vững vàng vượt qua mọi khó khăn, chủ động nắm bắt, tận dụng thời cơ nêu cao khát vọng phát triển "đất nước phồn vinh, hạnh phúc", "dân tộc cường thịnh, trường tồn"./. BBT
| 25/08/2022 5:00 SA | Đã ban hành | | Bác Hồ với thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám | Bác Hồ với thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám | Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thắng lợi nổi bật nhất, vĩ đại nhất của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.
|
Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi đồng bào cả nước được truyền đi khắp nơi trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám (1945). (Ảnh tư liệu) Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi đến thành công; với tầm nhìn xa trông rộng, nắm bắt được tình hình thế giới, đánh giá đúng thời cơ cách mạng, Người cùng Trung ương Đảng đã xây dựng lực lượng và lãnh đạo quân, dân cả nước tiến hành thắng lợi Cách mạng tháng Tám, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra trang sử vẻ vang chói lọi nhất cho dân tộc Việt Nam.  Cuộc mít tinh phát động khởi nghĩa giành chính quyền do Mặt trận Việt Minh tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19/8/1945. (Ảnh tư liệu) Tháng 8/1945, phát xít Đức đầu hàng đồng minh, ở Đông Dương quân Nhật hoảng loạn, phong trào cách mạng cả nước sôi sục, những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, Bác Hồ đã khẳng định, lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu cũng phải giành cho được độc lập. Với tư duy chiến lược, nhãn quan chính trị nhạy bén và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nắm chắc thời cơ cách mạng, kịp thời đề ra chủ trương, kế hoạch Tổng khởi nghĩa, kêu gọi sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Ngay đêm hôm đó, Uỷ ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ lệnh khởi nghĩa và phát đi "Quân lệnh số 1" kêu gọi đồng bào cả nước đứng dậy tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 16/8/1945, Đại hội Đại biểu Quốc dân (tức Quốc dân Đại hội Tân Trào) tiến hành họp và phát động Tổng khởi nghĩa vũ trang, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, trong đó điểm đầu tiên là phải "giành chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập"; Đại hội quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng; chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, phát động khởi nghĩa giành chính quyền một cách nhanh nhất, khẩn trương nhất, để cả đất nước Việt Nam đứng lên tự làm chủ vận mệnh của mình và đất nước mình. Thành công của Đại hội cho thấy sự sáng tạo độc đáo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945. Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa: "Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến; toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên". Sáng ngày 19/8/1945, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự mít tinh. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến Quân Ca, đại biểu Ủy ban quân sự Cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh. Cuộc mít tinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm Phủ Khâm sai, trại lính bảo an và các cơ sở của Chính phủ bù nhìn. Từ Hà Nội, làn sóng Cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền và liên tiếp giành thắng lợi. Cách mạng tháng Tám là sự kiện vĩ đại trong lịch sự dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối Cách mạng đúng đắn của Đảng ta: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, Nhật; lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi hoàn toàn; Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn nhân dân, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!" Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thắng lợi nổi bật nhất, vĩ đại nhất của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Mùa thu Tháng Tám năm 1945 đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi, mở ra một trang sử mới, trang sử hào hùng nhất suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Phát huy những giá trị của Cách mạng tháng Tám và sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách, chiến thắng dịch COVID-19, cũng như thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra. Trong những ngày mùa Thu lịch sử này, kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhân dân Việt Nam lại hướng về Quảng trường Ba Đình lịch sử để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhớ về Bác muôn vàn kính yêu, chúng ta càng tự hào về những năm tháng hào hùng của mùa Thu năm 1945. Tinh thần Cách mạng Tháng Tám sẽ còn mãi tỏa sáng, là nguồn sức mạnh to lớn của thời đại mới, là động lực và chỉ dẫn quan trọng cho sự nghiệp đổi mới, phát huy ý chí tự lực, tự cường, khơi dậy "khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc". Gia Nguyên Nguồn: https://hochiminh.vn/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh
| 07/08/2022 8:00 SA | Đã ban hành | | Thực tiễn xây dựng đạo đức công dân | Thực tiễn xây dựng đạo đức công dân | Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của lao động đối với quá trình phát triển xã hội cũng như sự phát triển và hoàn thiện các phẩm chất đạo đức công dân. "Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, là nhờ lao động. Xây nên giàu có, tự do, dân chủ cũng là nhờ lao động. Trí thức mở mang cũng nhờ lao động"(21).
|  Bác Hồ dùng thử máy cấy lúa cải tiến tại Trại Thí nghiệm trồng lúa Sở Nông lâm Hà Nội, tháng 7-1960. Ảnh: Tư liệu
Việc tham gia tích cực, chủ động vào hoạt động lao động sẽ tác động toàn diện đến việc hình thành và thực hiện các chuẩn mực đạo đức công dân: "Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tập cho họ quen khổ. Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỷ lực (làm lấy mà ăn), không ăn bám xã hội. Bốn là có ích cho sức khoẻ của họ"(22). Lao động là lĩnh vực hoạt động thực tiễn quan trọng bậc nhất của mọi công dân, là "nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta"(23), "lao động là sức chính của sự tiến bộ loài người"24). Trong chế độ mới việc tự giác tham gia vào quá trình lao động sản xuất và lao động đạt hiệu quả cao là thước đo một trong những phẩm chất đạo đức công dân. Qua đó, ý thức trách nhiệm, tính tự giác trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ được thử thách, rèn luyện. Khi tham gia vào quá trình lao động sản xuất xã hội, công dân biết quý trọng thành quả lao động của bản thân và xã hội và trên cơ sở đó biết tôn trọng và bảo vệ lợi ích của xã hội. Lao động giúp cho tri thức, hiểu biết của công dân nói chung trong đó có tri thức đạo đức ngày càng nâng cao. Đây là tiền đề quan trọng để mỗi công dân nâng cao trình độ đạo đức, khắc phục các biểu hiện lệch lạc trong rèn luyện đạo đức công dân. Bên cạnh việc đề cao vai trò của Nhà nước, các đoàn thể xã hội trong việc tạo môi trường, điều kiện lao động thuận lợi và giáo dục thái độ đúng đắn trong lao động sản xuất, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi công dân cần tích cực tự giác tham gia lao động sản xuất. Người đặc biệt lưu ý cần khắc phục tư tưởng trọng lao động trí óc, coi khinh lao động chân tay, tư tưởng lười lao động, thái độ gian dối trong lao động... Năng xuất lao động là thước đo hiệu quả và trình độ lao động. Do đó, theo Hồ Chí Minh, mỗi công dân muốn đạt kết quả cao trong lao động cần phát huy năng lực sáng tạo của bản thân. Chỉ có lao động với tinh thần sáng tạo mới giúp công dân không ngừng hoàn thiện mình, khắc phục những hạn chế cố hữu vốn là tàn dư của chế độ cũ. Nâng cao năng xuất lao động cũng là động lực giúp công dân tự giác nâng cao trí tuệ, đặc biệt là những đức tính như: cần cù, nhanh nhẹn, sáng tạo và kỷ luật lao động. Xây dựng đạo đức công dân thông qua quá trình tu dưỡng Trong việc hình thành các chuẩn mực đạo đức công dân, việc hình thành, phát triển ý thức tự giác, tinh thần tự chủ, tự cường, năng lực tự giáo dục của mỗi người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, Hồ Chí Minh căn dặn: "Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ"(25). Động lực của sự nỗ lực vươn lên, vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thiện các phẩm chất đạo đức công dân, theo Hồ Chí Minh là ở chỗ: các cá nhân tự ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với đất nước, đồng bào, gia đình và bản thân. Nếu con người mong muốn được đem tài năng, đức độ của mình để "phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà"(26) thì đó là sự nỗ lực chân chính và giàu tính nhân văn, cần khuyến khích và tạo điều kiện cho khuynh hướng này phát triển. Còn nếu chỉ vì mục đích vụ lợi, vị kỷ "Tự tư tự lợi, chỉ nghĩ đến lợi riêng của mình"(27), mong muốn "ăn trên ngồi trốc" đồng loại, thì đó là khuynh hướng cần phải đấu tranh loại bỏ. Theo Hồ Chí Minh, xã hội phải đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của từng cá nhân, tạo điều kiện cho công dân cống hiến và hưởng thụ, phù hợp với sự đóng góp của họ cho xã hội. Cần phải tôn trọng lợi ích chính đáng của cá nhân, bởi: "Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình"(28). Hồ Chí Minh khẳng định: "Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa"(29). Theo đó, đây không chỉ là mục tiêu mà còn là điều kiện rất quan trọng để mỗi công dân tự giác vươn lên về mọi mặt; hoàn thiện phẩm chất, năng lực bản thân, trong đó có phẩm chất đạo đức công dân.  Các đại biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Ảnh: TUẤN LINH
Đi đôi với bồi dưỡng tinh thần tự lực, tự giác vươn lên cho mỗi thành viên trong cộng đồng, cần phải xây dựng cho công dân niềm tin vào chế độ mới. Bởi vì, "Có tin tưởng thì lúc ra thực hành mới vững chắc, hăng hái, lúc gặp khó khăn mới kiên quyết, hy sinh"(30). Không có niềm tin vững chắc vào sự tốt đẹp của xã hội XHCN mà nhân dân ta đã, đang và sẽ xây dựng thì khó có thể động viên được mọi người hăng hái chiến đấu, học tập, rèn luyện, tu dưỡng "Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp"(31). Theo Hồ Chí Minh, cùng với việc xây dựng lẽ sống, niềm tin khoa học, tinh thần lạc quan cách mạng, cần kiên quyết chống tâm lý tự ti, mặc cảm, bảo thủ, rụt rè của con người Việt Nam - xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội thấp kém, tâm lý sản xuất nhỏ, thói quen ỷ lại, thiếu tin tưởng vào năng lực của bản thân... Vì vậy, cần phải không ngừng động viên, khuyến khích mỗi người tự giác vươn lên, tin vào khả năng của bản thân, vào thắng lợi của cách mạng; cần phải "Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới"(32). Sự hình thành các phẩm chất đạo đức công dân luôn gắn bó với vai trò của nhân tố chủ quan - không có sự nỗ lực, tự giác vươn lên của mỗi người thì sự nghiệp xây dựng đạo đức công dân không thể thành công. Vì vậy, tạo ra môi trường kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi, xây dựng định hướng giá trị xã hội đúng đắn, phù hợp là hết sức quan trọng. Xây dựng đạo đức công dân ở Việt Nam là yêu cầu, đòi hỏi khách quan của quá trình xây dựng, hoàn thiện chế độ mới. Trong tình hình hiện nay, trước yêu cầu "tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân..."(33), đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục vận dụng sáng tạo những quan điểm cách mạng và khoa học về xây dựng đạo đức công dân của Hồ Chí Minh. Quá trình đó đòi hỏi phải xác định đúng lộ trình, bước đi và cách làm thận trọng, đồng bộ, sáng tạo, với tinh thần kiên quyết, kiên trì, đúng như chỉ dạy của Người: "Muốn thành công ắt phải: Đặt mức 10 phần, phải có biện pháp 15 phần, và phải cố gắng 20 phần"(34)./ Gia Nguyên
| 29/07/2022 7:00 CH | Đã ban hành | | Không ngừng hoàn thiện hơn nữa chính sách đối với thương, bệnh binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng | Không ngừng hoàn thiện hơn nữa chính sách đối với thương, bệnh binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng | Quán triệt tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh, chính sách ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công không chỉ là đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, mà trở thành một hệ thống chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, góp phần to lớn vào sự ổn định và phát triển xã hội.
|  Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm, tặng quà các thương bệnh binh tại Trung tâm Nuôi dưỡng thương bệnh binh nặng và Điều dưỡng Người có công tỉnh Hà Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định: "Thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách mạng"(8). Trong các kỳ đại hội tiếp theo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán với chủ trương đó và bổ sung, hoàn thiện, nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội chăm lo đời sống cho thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Văn kiện Đảng chỉ rõ: "Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến..."(9).
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: "Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên"(10). Tinh thần đó cũng tiếp tục được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: "Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công; bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội"(11). Từ chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đã không ngừng xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Các chính sách đó từng bước được luật hóa thành hai pháp lệnh: Pháp lệnh phong tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (nay là Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng). Hai pháp lệnh về người có công, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ ra đời là cơ sở, căn cứ quan trọng để Nhà nước và nhân dân không ngừng cố gắng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong chăm lo cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, giúp cho họ từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Với chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp truyền thống dân tộc và sự mong mỏi của toàn dân, chế độ, chính sách đối với người có công từng bước được mở rộng về đối tượng thụ hưởng với mức trợ cấp được nâng lên hằng năm. Tính đến năm 2021, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó, số người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng gần 1,4 triệu người; trên 500 nghìn thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng. Phong trào "Đền ơn, đáp nghĩa" ngày càng được xã hội hóa sâu rộng. Nhiều cơ sở sự nghiệp, chăm sóc sức khỏe được xây dựng phục vụ các đối tượng chính sách. Nhiều nghĩa trang liệt sĩ và các công trình tưởng niệm liệt sĩ đã được xây dựng, trong đó có nhiều nghĩa trang trở thành những công trình văn hóa - lịch sử của đất nước, như: Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ... Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục, giải quyết. Tình trạng sai sót đối tượng trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ vẫn còn diễn ra ở một số địa phương. Công tác đền ơn đáp nghĩa ở một số nơi chưa gắn với việc giáo dục truyền thống, tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào, tôn vinh người tốt, việc tốt. Chế độ trợ cấp ưu đãi nhìn chung còn thấp. Đời sống của gia đình chính sách tuy được cải thiện nhưng vẫn còn thấp, học hành và việc làm của con em chưa được bảo đảm. Những sai sót, nhầm lẫn, tiêu cực trong thực hiện chính sách xảy ra ở một số nơi, gây không ít phiền hà cho người hưởng chính sách, gây dư luận không tốt trong xã hội. Để thực hiện tốt hơn nữa công tác chăm lo đời sống cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, cần tiếp tục tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau: Thứ nhất, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Đây là công việc cần diễn ra thường xuyên, liên tục do các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương trực tiếp lãnh đạo, tiến hành làm cho mọi cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa, giá trị to lớn của việc thực hiện công tác chính sách xã hội nói chung, công tác thương binh, liệt sĩ, người có công nói riêng và phong trào "Đền ơn đáp nghĩa". Thứ hai, không ngừng nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công, nâng mức trợ cấp phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước nhằm bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú. Thứ ba, xử lý dứt điểm tồn đọng về xác nhận, công nhận người có công, tránh thiệt thòi cho những thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, tránh những bức xúc không đáng có trong xã hội. Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác tu bổ, tôn tạo nghĩa trang liệt sĩ, công trình ghi công liệt sĩ; đẩy mạnh tìm kiếm, xác định danh tính liệt sĩ, quy tập hài cốt liệt sĩ, kịp thời thông báo và tạo điều kiện thuận lợi để thân nhân liệt sĩ đến thăm viếng. 
Thứ tư, cần tiếp tục đẩy mạnh sâu rộng phong trào "Đền ơn đáp nghĩa". Động viên toàn dân, phối hợp nhiều nguồn lực với phương châm "Nhà nước, nhân dân và những người được hưởng chính sách ưu đãi cùng phấn đấu", cùng các biện pháp phong phú, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả chăm sóc thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng./. GIa Nguyên
| 26/07/2022 7:00 CH | Đã ban hành | | Tư tưởng Hồ Chí Minh về thương, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng | Tư tưởng Hồ Chí Minh về thương, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng | Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó đến như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta.
|
Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh họ, để giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia đình và tài sản của đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ"(1); "Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt"(2). Đối với liệt sĩ "Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do"(3). Kế thừa truyền thống đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây" của dân tộc, đặc biệt thấu hiểu những hy sinh, cống hiến của các anh hùng liệt sĩ, thương binh đối với đất nước, theo Hồ Chí Minh: "Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy"(4). Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, của thế hệ đi sau đối với sự hy sinh lớn lao của thế hệ đi trước.  Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm gia đình có công với cách mạng ở thôn Phú Gia, Phú Thượng, Hà Nội năm 1955.
Trách nhiệm của Đảng, Chính phủ đối với công tác này được Hồ Chí Minh chỉ dẫn cụ thể trong nhiều bài nói, bài viết, đặc biệt trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa, Người căn dặn: "Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh". Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét"(5). Đối với các cấp chính quyền ở địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn cần tùy điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình mà giúp đỡ, chăm sóc thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, sao cho đạt hiệu quả thiết thực nhất cả trước mắt và lâu dài. Đối với mỗi người dân, theo Hồ Chí Minh cần coi đây là nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, thế hệ đi sau cần có trách nhiệm với thế hệ đi trước, trách nhiệm với sự đóng góp, hy sinh lớn lao của các thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Cần nhất quán quan điểm việc thực hiện chính sách đền ơn, đáp nghĩa đối với thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ là trách nhiệm chứ không phải là một việc "làm phúc". Với các thương binh, bệnh binh - những người trực tiếp thụ hưởng chính sách, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cần tiếp tục truyền thống anh dũng của người quân nhân cách mạng. "Phải hòa mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân, tránh phiền nhiễu nhân dân. Tránh tâm lý "công thần", coi thường lao động, coi thường kỷ luật. Chớ bi quan chán nản. Phải luôn luôn cố gắng"(6)… Họ phải cố gắng đem hết khả năng của mình để tăng gia sản xuất, dần dần có thể tự lực cánh sinh, tiến tới tự cấp tự túc, giảm bớt khó khăn cho bản thân, gia đình và xã hội. Phấn đấu để trở thành người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như đã từng là người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận. Người luôn căn dặn những thương binh, bệnh binh cần phát huy tinh thần người lính, thực hiện tốt phương châm "tàn nhưng không phế". Không chỉ trực tiếp lãnh đạo đất nước, định hình đường lối thực hiện chính sách đối với thương, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có nhiều hoạt động thể hiện sự quan tâm trực tiếp tới công tác đầy giá trị nhân văn và thấm đẫm tình người này. Năm 1946, ngay khi nước nhà vừa mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà bằng hình thức ra "Thông báo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi"(7), trong đó thể hiện rõ tình cảm, sự biết ơn, chia sẻ sâu sắc đối với hy sinh của các liệt sĩ. Đặc biệt, năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm "Ngày Thương binh" để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thương binh, liệt sĩ. Ngày 27/7/1947, một cuộc mít-tinh lớn kỷ niệm ngày Thương binh toàn quốc đã diễn ra tại Đại Từ, Thái Nguyên, mở đầu cho Ngày Thương binh, liệt sĩ hằng năm. Từ đây, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân luôn coi ngày 27/7 là ngày để tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân công lao to lớn đối với các anh hùng liệt sĩ, thương binh, bệnh binh - những người có công với cách mạng và gia đình các liệt sĩ. Cũng từ đó, vào dịp tháng 7 hằng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, gia đình liệt sĩ, một mặt khẳng định công lao, đóng góp của họ, một mặt động viên họ không ngừng cố gắng, vươn lên. Trong 22 năm (1947 - 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 14 lần gửi quà, tiền nhân Ngày Thương binh, liệt sĩ vào Quỹ thương binh toàn quốc cho các trại an dưỡng thương binh… Gia Nguyên Nguồn Tạp chí Tuyên giáo
| 24/07/2022 7:00 CH | Đã ban hành | | Vấn đề xây dựng đạo đức công dân theo tư tưởng của Người | Vấn đề xây dựng đạo đức công dân theo tư tưởng của Người | Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập đến xây dựng đạo đức công dân trong chế độ mới. Người coi xây dựng đạo đức công dân là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách song song với các nhiệm vụ khác của chính quyền dân chủ nhân dân. Những quan điểm cách mạng, khoa học của Người luôn là nền tảng cho việc xây dựng đạo đức công dân ở Việt Nam hiện nay.
|  Chủ tịch Hồ Chí Minh vui múa hát cùng các cháu thiếu nhi tại Phủ Chủ tịch nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1.6.1960. (Ảnh: nguồn TTXVN)
Toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh không chỉ hiến dâng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc mà Người còn kiên trì giáo dục, rèn luyện và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, trong chế độ dân chủ nhân dân không chỉ cần đề cao trách nhiệm của Nhà nước, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức mà còn cần phải phát huy ý thức trách nhiệm công dân với tư cách là những thuộc tính căn bản nhất của người dân trong chế độ mới. Người chỉ rõ "nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân"(1). Như vậy, có thể hiểu, đạo đức công dân là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi của công dân trong quan hệ với nhà nước, nó được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống,sức mạnh của dư luận xã hội và pháp luật.Vì vậy, khi đạo đức công dân được hình thành thì việc tuân thủ những thiết chế xã hội của công dân sẽ giảm dần tính cưỡng chế. Mọi công dân khi đó sẽ tự giác, tự nguyện chấp hành pháp luật; việc thực hiện các yêu cầu của pháp luật và các yêu cầu xã hội ngoài pháp luật sẽ trở thành nhu cầu, thành động cơ bên trong mỗi công dân. Đạo đức công dân còn tạo điều kiện cho mọi công dân được giải phóng hoàn toàn năng lực làm chủ của mình, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Đạo đức công dân chính là nền tảng tinh thần định hướng, dẫn dắt công dân hướng tới những giá trị dân chủ mới, đề kháng với những biểu hiện phi dân chủ thông qua cơ chế lựa chọn, sàng lọc của cả cộng đồng theo những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung nhất. Từ yêu cầu xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, Hồ Chí Minh đã khái quát đạo đức công dân trên những chuẩn mực đạo đức căn bản, đó là: "- Tuân theo pháp luật Nhà nước. - Tuân theo kỷ luật lao động. - Giữ gìn trật tự chung. - Đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung. - Hăng hái tham gia công việc chung. - Bảo vệ tài sản công cộng. - Bảo vệ Tổ quốc"(2). Theo Người, đạo đức công dân không phải là thuộc tính cá nhân bẩm sinh của mỗi người và không phải hình thành một lần là xong. Sự vận động, biến đổi và phát triển của nó luôn song hành cùng với những biến đổi của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Bằng những phương thức vừa mang tính lý luận, vừa có tính thực tiễn cao, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến công việc quan trọng này. Xây dựng đạo đức công dân thông qua giáo dục, đào tạo Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo dục, đào tạo (GD-ĐT) trong xây dựng đạo đức công dân. Theo Người, mục đích GD-ĐTchính là nhằm xây dựng nên những "công dân ưu tú", "công dân kiểu mẫu", không chỉ có năng lực làm chủ mà còn có những phẩm chất đạo đức tương xứng với địa vị làm chủ của mình. Người viết: "Bình dân học vụ không những dạy đọc, dạy viết, mà còn phải chú trọng dạy đạo đức công dân. Như vậy bình dân học vụ sẽ góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước"(3). Trong Di chúc, Người nhắc nhở: Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Giáo dục đạo đức công dân là quá trình lâu dài, gian khổ, vì đó là cuộc cách mạng bên trong bản thân mỗi con người. GD-ĐTphải góp phần hình thành lên những chuẩn mực đạo đức công dân mới để đánh thắng tư tưởng cũ, từ bỏ con người cũ - con người nô lệ, thần dân để trở thành những công dân của nước Việt Nam. Đây là nhiệm vụ khó khăn, gian khổ, là "cuộc chiến đấu khổng lồ". Vấn đề quan trọng đầu tiên là cần xác định rõ mục tiêu của chiến lược GD-ĐT. Người chỉ rõ: "Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng"(4). Mục đích nhằm "đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà"(5) - những người kế tục xứng đáng sự nghiệp xây dựng chế độ mới. Muốn đạt được mục tiêu chiến lược phải có phương pháp giáo dục toàn diện: "Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất"(6). Chăm lo bồi dưỡng các thế hệ công dân thông qua hoạt động GD-ĐT là trách nhiệm của toàn xã hội. Người nói: "Ngày nay chúng là nhi đồng. Ít năm nữa, chúng sẽ là công dân, cán bộ. Vì vậy, Chính phủ, các đoàn thể, và tất cả đồng bào đều có trách nhiệm giúp vào việc giáo dục nhi đồng"(7). Phát huy trách nhiệm của toàn xã hội là biện pháp có hiệu quả nhất không chỉ tập trung trí tuệ, sức sáng tạo của toàn dân mà còn tạo ra dư luận xã hội, môi trường xã hội thuận lợi để mỗi công dân không ngừng rèn luyện đạo đức công dân. Với một xã hội vừa mới thoát thai từ xã hội thực dân phong kiến điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn vì đó cũng có thể coi là "một cuộc chiến đấu chống lại cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi"(8). Đề cao trách nhiệm của toàn xã hội trong bồi dưỡng thế hệ công dân tương lai là một tư tưởng lớn trong giáo dục hiện đại. Giáo dục đạo đức cho các thế hệ công dân không thể thiếu vai trò của những người thầy. Người nói: "Bây giờ nhiệm vụ giáo dục khác trước. Các cô, các chú có nhiệm vụ rất quan trọng: Bồi dưỡng thế hệ công dân, cán bộ sau này"(9). Để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang, theo Người, mỗi thầy cô giáo trước hết phải thực sự yêu nghề, tâm huyết với nghề. "Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh"(10). Bên cạnh trau rồi đạo đức, mỗi thầy cô giáo cần không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm, phải là những người công dân gương mẫu tiên phong - tự giác thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình để làm mực thước cho học sinh bắt trước. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người phụ trách GD-ĐT: muốn xây dựng đạo đức công dân có hiệu quả phải nắm chắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý giáo dục "Kết hợp chặt chẽ lý luận với thực hành, giáo dục với lao động, văn hóa với đạo đức cách mạng"(11). Việc kết hợp này không thuần túy ở xác định nội dung chương trình giáo dục, xác định mục đích, nội dung, phương châm giáo dục… mà cần được vận dụng phù hợp với từng người học, môn học. Trong giáo dục đạo đức công dân, nguyên lý trên có giá trị đặc biệt. Đạo đức là lĩnh vực thuộc ý thức, tư tưởng con người. Do đó, hoạt động giáo dục nếu chỉ dừng lại ở lý thuyết sẽ trở lên giáo điều, "lý thuyết suông", không những không hiệu quả mà có khi còn phản giáo dục. Ngược lại, nếu chỉ có thực hành thì sẽ rơi vào rập khuôn máy móc, chẳng khác nào "người mù đi đêm"(12). Trong quá trình xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin sâu sắc vào con người, vào khả năng "ai cũng muốn tiến bộ để phụng sự Tổ quốc, và phục vụ nhân dân có hiệu quả hơn"(13). Đó cũng là niềm tin vào sức mạnh của giáo dục cách mạng trong việc tạo ra những công dân kiểu mẫu đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội mới. Xây dựng đạo đức công dân thông qua thực tiễn đấu tranh cách mạng Để xây dựng đạo đức nói chung, đạo đức công dân nói riêng, theo Hồ Chí Minh mỗi công dân cần tích cực tu dưỡng, rèn luyện thông qua nhiều hình thức hoạt động khác nhau, trước hết là thông qua hoạt động thực tiễn và đấu tranh cách mạng. "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt"(14); đó "là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển"(15). Tính phức tạp, sự quyết liệt của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp trong thời đại mới ở nước ta luôn đặt ra yêu cầu ngày càng cao về mọi mặt đối với mỗi công dân để họ thực hiện địa vị làm chủ của mình. Vì vậy, xây dựng đạo đức công dân phải liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh xã hội, "Đó là một trường học rất rộng, rất tốt"(16). Thông qua hoạt động và đấu tranh cách mạng, người dân đã từng bước trở thành những người công dân trong chế độ mới, được thừa hưởng đầy đủ những thành quả cách mạng. Vì vậy, tham gia tích cực vào sự nghiệp giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ chế độ mới là điều kiện để họ từng bước trở thành những "công dân đứng đắn", "công dân tốt", "công dân kiểu mẫu" của nước Việt Nam độc lập. Ngay khi cách mạng còn trong trứng nước, Hồ Chí Minh đã chủ trương tập hợp, tổ chức giáo dục mọi tầng lớp nhân dân lao động yêu nước, có ý chí cách mạng vào các hình thức mặt trận khác nhau đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai. Thông qua thực tiễn đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ chính là quá trình tu dưỡng, rèn luyện nhân cách những công dân ưu tú tương lai, tạo tiền đề vững chắc xây dựng chế độ mới. Phương thức rèn luyện nhân cách con người được Hồ Chí Minh khái quát: "Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi trắng tựa bông/ Sống ở trên đời người cũng vậy/ Gian nan rèn luyện mới thành công"(17). Từ chỗ chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của quan niệm đạo đức phong kiến, thông qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, công dân nước Việt Nam độc lập - nhất là những "công bộc của dân" được giáo dục, rèn luyện để hình thành nên những quan niệm đạo đức mới: "Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào"(18). Với quan niệm biện chứng, Người cho rằng, những chuẩn mực đạo đức trong xã hội phong kiến, thực dân không chỉ có những điểm khác biệt mà còn đối lập với đạo đức công dân trong xã hội mới: "Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời"(19). Việc tự nguyện tham gia vào sự nghiệp đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là biểu hiện sinh động của tinh thần vươn tới cái mới, cái hay, cái đẹp,… cũng như thể hiện thái độ kiên quyết chống lại cái xấu xa, cái ác. Sẽ rơi vào duy tâm nếu cho rằng đạo đức công dân là cái có trước hiện thực xã hội làm nảy sinh nó, tức là xã hội công dân. Tuy nhiên, với quan điểm: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa"(20), thì rõ ràng chúng ta không thể ngồi chờ xã hội công dân được xây dựng xong thì mới xây dựng đạo đức của những công dân trong xã hội đó. Xây dựng xã hội công dân là quá trình xây dựng thể chế chính trị, nền tảng vật chất - kỹ thuật, chỉ có thể đạt được khi tạo lập được những điều kiện khách quan cho nó, không thể nóng vội chủ quan, đốt cháy giai đạn. Xây dựng những "công dân xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa" có thể được hoàn thiện trước một bước so với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, nhưng phải có những điều kiện. Điều kiện đó là phải thông qua các hình thức hoạt động hướng tới xây dựng đạo đức công dân. Trong các hình thức hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức công dân thông qua các phong trào thi đua. Theo người, thi đua là hoạt động tự giác, thể hiện quyền và nghĩa vụ của mọi công dân, là hoạt động thiết thực và hiệu quả nhất để mỗi công dân đóng góp công sức của mình cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đồng thời là điều kiện để mỗi người rèn luyện đạo đức công dân. Gia Nguyên
| 20/07/2022 7:00 CH | Đã ban hành | | Nhiệm vụ tuyên truyền và cách tuyên truyền | Nhiệm vụ tuyên truyền và cách tuyên truyền | Tuyên truyền được hiểu là tuyên truyền cách mạng. Tuyên truyền cái gì? Tuyên truyền như thế nào? Tuyên truyền để làm gì? Tuyên truyền cho ai? Ai có thể tuyên truyền? v.v.. là những câu hỏi mà những người làm công tác tuyên giáo phải luôn luôn nắm vững để trả lời có chất lượng mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Những câu hỏi này được Hồ Chí Minh nêu lên từ thập kỷ bốn mươi và thông qua lý luận - thực tiễn, Người đã đem lại những câu trả lời thuyết phục, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị soi sáng công tác tuyên truyền nói riêng, tuyên giáo nói chung.
|  Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và huấn thị cho cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân tháng 12/1961.
Công cuộc đổi mới đã đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế giới và đất nước ngày nay đang diễn ra những biến đổi lớn lao. Nhưng trong mọi biến đổi cũng có một số điều quan trọng không hề thay đổi. Đó là nhận thức của chúng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội với ba trụ cột là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ba trụ cột được "xây" trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với hai nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và lấy dân làm gốc. Nhiệm vụ tuyên giáo và cách tuyên truyền hiện nay là làm cho nhân dân và cán bộ hiểu được những vấn đề lý luận và thực tiễn đó; làm rõ hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thành nhiệm vụ công tác tuyên giáo, tuyên truyền phải giản đơn, rõ ràng, cụ thể, thiết thực, đúng chỗ, đúng lúc. Tuyên truyền là để người dân hiểu, dân tin và làm được. Phải tuyên truyền cả lý luận và công tác. Tuyên truyền lý luận là dạy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Tuyên truyền công tác là làm cho người dân hiểu vì sao phải làm những công việc đó? Làm những gì? Làm như thế nào? Tất cả nhằm đem lại lợi cho dân và tránh hại cho dân. Những câu hỏi nêu trên phải được cụ thể hóa, hiện thực hóa. Bác dạy: "Các chú phải tự hỏi, tự trả lời. Chứ không phải chờ trên gửi tài liệu xuống, rồi theo một, hai, ba, bốn mà làm"(1). Bác phê bình những người làm công tác tuyên truyền chỉ nói nào là làm "cách mạng xã hội chủ nghĩa", nào là "tiến lên chủ nghĩa xã hội", nào là "xây dựng chủ nghĩa xã hội" làm cho đồng bào khó hiểu, ít người hiểu. Bác nhắc lại câu chuyện đồng chí Đimitơrốp kể: Khi ở Đức có bãi công, Đảng cử người đến tuyên truyền. Đáng lẽ người tuyên truyền phải nói bãi công thế nào, thì lại nói chủ nghĩa Mác là gì, thặng dư giá trị là gì. "Như thế là nói không đúng chỗ, không thiết thực. May mà đồng chí đó không bị quần chúng ném đá. Tuyên truyền như thế không ăn thua gì cả"(2). Hiện nay, những chứng bệnh đó vẫn tồn tại với những biểu hiện, mức độ đậm nhạt, cao thấp khác nhau. Điểm giống nhau của các căn bệnh trước và nay là tuyên truyền không đúng lúc, đúng nơi, không cụ thể, không thiết thực, không tỏ rõ được tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng và đòi hỏi của các tầng lớp nhân dân. Chẳng hạn, "khơi dậy khát vọng phát triển đất nước" là một điểm nhấn trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Nhưng nếu tuyên truyền chỉ nhắc lại hai từ "khát vọng" thì không "thuộc bài", "đúng bài" tuyên giáo. Đó là cách nói chung chung, kiểu "hội trường" mà Bác đã nhiều lần phê bình: "Không phải tuyên truyền để mà tuyên truyền, huấn luyện để mà huấn luyện"(3). Cái người dân cần là phải nói làm sao thiết thực, dễ hiểu, để người ta hiểu được, hiểu để làm. Tức là phải biết cách tuyên truyền. Nhiều tỉnh nói về tiềm năng, khát vọng phát triển, phải đạt tỉnh khá, tỉnh giàu, kiểu mẫu là cần thiết, nhưng tuyên truyền là phải cắt nghĩa, phân tích được vì sao hiện nay nói và nhấn mạnh những điều đó? Phát triển cái gì? Phát triển đến đâu? Theo hướng nào, bằng cách nào? Tuyên truyền phải rất thực tiễn thì mới thực hiện được khát vọng. Tuyên truyền đừng để người dân hiểu sai về cái đúng, hiểu xấu về cái tốt, cái đẹp của khát vọng thành "phong trào khát vọng", "hội chứng khát vọng". Tuyên truyền không phải nhắc lại Văn kiện của Đảng, Nhà nước, mà phải làm cho quan điểm của Đảng, Nhà nước thấm sâu vào tim óc người dân, khẳng định niềm tin, khơi dậy quyết tâm và hành động. Tuyên truyền ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào còn nhiều khó khăn thiếu thốn về cơm ăn áo mặc, điện, nước, trường học, bệnh xá, đường sá…, càng phải rất thiết thực. Ý định của những người làm công tác tuyên truyền là tốt, muốn khẳng định đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng và chính sách đúng đắn của Chính phủ, bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính đột phá về lý luận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, v.v.. Ý định tốt nhưng khi tuyên truyền phải xuất phát từ thực tế, không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của người tuyên truyền, tuyên truyền để mà tuyên truyền, tuyên truyền "lấy được". Tuyên truyền không thiết thực, không đúng lúc, đúng chỗ, có thể biến ý định tốt thành không tốt, biến cái hay thành cái dở, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng vậy. Bác dạy: "Nói thế nào cho đồng bào hiểu được, đồng bào làm được, đó là nói được chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói thiết thực, nói đúng lúc, đúng chỗ mới là hiểu được chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu nói không đúng chỗ không phải là chủ nghĩa Mác - Lênin"(4). Người chỉ rõ: "Các chú dạy cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác – Lênin, chắc có nhiều người thuộc, nhưng các chú có làm cho mọi người hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là thế nào không. Theo Bác, hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác… Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin"(5). Lời Bác dạy vẹn nguyên giá trị đối với công tác tuyên giáo hiện nay. Một trong những yêu cầu đối với người tuyên truyền, đó là phải hội đủ những phẩm chất về tri thức, phương pháp và đạo đức. Phải "dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu"(6). Phải rèn luyện cách nói giản đơn, rõ ràng, thiết thực, có đầu, có đuôi, có hồn, truyền cảm hứng, niềm tin, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được, làm được. Bác dạy bảo những người tuyên truyền khi nói, viết phải chống thói ba hoa, biểu hiện ở chỗ dài dòng, rỗng tuếch; cầu kỳ; khô khan, lúng túng; báo cáo giả dối, thành công ít suýt ra nhiều, còn khuyết điểm thì giấu đi không nói đến; bệnh theo "sáo cũ"; nói không ai hiểu; bệnh hay nói chữ như tục ngữ có câu "xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ", v.v.. Theo Bác, người tuyên truyền phải hiểu rằng mỗi khẩu hiệu của Đảng phải là ý nguyện và mục đích của hàng triệu đảng viên và của hàng triệu quần chúng. Mà muốn như thế, phải làm cho dân chúng đều hiểu, phải học cách nói của dân chúng "học ăn, học nói, học gói, học mở", chớ nói như cách giảng sách. Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng. Nếu không hàng vạn khẩu hiệu cũng vô ích. Người dạy: "Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ: Chó ba quanh mới nằm. Người ba năm mới nói"(7). Bác thẳng thắn phê bình người đi tuyên truyền tưởng mình là công chức, làm việc theo cách bàn giấy mà quên nhiệm vụ của mình là tuyên truyền, cổ động, giải thích và huấn luyện cho nhân dân. Người chỉ rõ: "Các cấp thông tin tuyên truyền thường thi hành chỉ thị cấp trên một cách máy móc, không biết áp dụng theo hoàn cảnh thiết thực trong địa phương mình. Tuyên truyền không chủ trương thực tế mà hay nói những lý luận viễn vông. Chưa có một chương trình, một kế hoạch thiết thực và đầy đủ về công tác cũng như kiểm tra"(8). Nói về người tuyên truyền - xét tận cùng và quan trọng nhất, quyết định nhất - phải có cái tâm, đạo đức trong sáng, xuất phát từ nhận thức về bổn phận phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới. Ngẫm lại những lời dạy sâu sắc của Bác lúc sinh thời về công tác tuyên truyền đến bây giờ vẫn thấy thấm thía, vẹn nguyên giá trị để mỗi cán bộ tuyên giáo học và làm theo./. Gia Nguyên Theo Tạp chí Tuyên giáo
| 14/07/2022 7:00 CH | Đã ban hành | | Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới | Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới | Xuyên suốt hơn 92 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát đều được triển khai và điều chỉnh phù hợp về chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy, tổ chức đảng trên tinh thần coi nhiệm vụ quan trọng này là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.
|
Ủy ban kiểm tra các cấp đã bám sát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quy chế làm việc, phương hướng, nhiệm vụ của từng nhiệm kỳ Đại hội Đảng để tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện một cách toàn diện. Đồng thời, gắn việc kiểm tra thường xuyên, định kỳ theo kế hoạch với kiểm tra đột xuất các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật Đảng, có đơn thư khiếu nại…để góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đúng như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: "Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên"(12). Thực tế cho thấy, thông qua kiểm tra, giám sát/kiểm soát, nhận thức của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên về công tác này có sự chuyển biến rõ nét, thể hiện qua việc chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức lực lượng kiểm tra, giám sát/kiểm soát có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn phức tạp; vào những nơi tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm kỷ luật, nội bộ mất đoàn kết… Đồng thời, việc xử lý những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" như: xa rời lý tưởng cách mạng, quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng và có các các hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành nhiệm vụ được giao được thực hiện nghiêm (kể cả cán bộ lãnh đạo cấp cao; cán bộ đang đương chức và đã nghỉ hưu) không chỉ có tác dụng giáo dục, răn đe mà còn được nhân dân đồng tình, ủng hộ, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ… Tuy nhiên, trên thực tế thì công tác kiểm tra và việc giám sát/kiểm soát ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị còn hình thức, còn "bị động và nặng về về giải quyết những vụ vi phạm kỷ luật trước mắt, chưa chủ động về việc giải quyết toàn diện vấn đề giữ gìn kỷ luật và chấp hành Điều lệ của Đảng"(13). Cùng với đó, việc xử lý kỷ luật, xét thư khiếu nại còn chậm; thậm chí có cấp ủy, tổ chức đảng coi công tác kiểm tra là "vạch lá tìm sâu", làm giảm thành tích của địa phương, đơn vị mình nên làm chiếu lệ… Trong khi đó, những hệ lụy từ toàn cầu hóa, từ kinh tế thị trường vẫn hằng ngày hằng giờ tác động vào đời sống, khiến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao sa vào bẫy đường của chủ nghĩa cá nhân, mù quáng vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật… Vì thế, để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiền phong, luôn "là đạo đức, là văn minh", xứng đáng với niềm tin yêu và sự kỳ vọng của nhân dân; để nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát nói riêng, thời gian tới, một mặt cần thấm nhuần sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ quan trọng này; mặt khác phải tập trung thực hiện một số giải pháp căn cốt sau: Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát gắn liền với việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong toàn Đảng và hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân về tầm quan trọng của công tác này, của việc thi hành kỷ luật Đảng để "tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng" như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ. Thông qua đó, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức được sâu sắc hơn về vai trò quan trọng của công tác này và của từng cá nhân, góp phần làm tốt, làm hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát trong cả hệ thống chính trị để ngăn chặn từ xa, từ đầu và giải quyết từ sớm, không để các vi phạm nhỏ tích tụ thành các vi phạm lớn, không để một cành cây mục nát làm hỏng cả một rừng cây xanh tốt. Hai là, không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trên tinh thần kiểm tra tập trung, giám sát/kiểm soát mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, kỷ luật đảng. Nội dung kiểm tra, giám sát/kiểm soát gắn liền với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; gắn với Kết luận số 21-KL/TW về "Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", Quy định số 37-QĐ/TW về "Những điều đảng viên không được làm", các Quy định về nêu gương và Kết luận số 01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"… Ba là, thực hiện nền nếp chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát/kiểm soát hằng năm, định kỳ, theo chuyên đề; trong đó, phối hợp kiểm tra, giám sát/kiểm soát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng bảo đảm chặt chẽ, công minh, chính xác, thấu tình, đạt lý, đúng quy trình và thẩm quyền. Gắn và kết hợp kiểm tra, giám sát/kiểm soát thường xuyên với kiểm tra, giám sát/kiểm soát theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất và kiểm tra dấu hiệu vi phạm; đồng thời, coi trọng sự tự kiểm tra, giám sát/kiểm soát của các cấp ủy, các tổ chức đảng; tăng cường kiểm tra, giám sát/ kiểm soát của cấp trên đối với cấp dưới. Thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra, đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp bảo đảm tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao (đủ số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp). Đồng thời, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy định, quy trình về công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát và kỷ luật Đảng gắn với việc ban hành mới các văn bản quy định, quy chế, quy trình, hướng dẫn về công tác này đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ theo đúng Điều lệ Đảng và hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Trung ương phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Bốn là, ủy ban kiểm tra các cấp và đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ kiểm tra, giám sát/kiểm soát không những phải trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức; phải nắm vững quy chế, quy trình, chức năng, nội dung, nhiệm vụ của mình, của người đứng đầu cấp ủy mà còn phải xác định rõ đây là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên, lâu dài của các tổ chức đảng, trước hết là các cấp ủy Đảng và người đứng đầu. Đồng thời, để đảm bảo cho công tác kiểm tra, giám sát phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Đảng hiện nay, cùng với việc nâng cao dự báo về những hành vi vi phạm của tổ chức đảng và cá nhân để kịp thời đề ra chủ truong, biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm từ xa, từ sớm là việc các cấp ủy cần chú trọng yếu tố con người. Theo đó, lựa chọn, bồi dưỡng, đề bạt và luân chuyển cán bộ làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát/kiểm soát có bản lĩnh chính trị "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục", có năng lực chuyên môn nghiệp vụ tốt, có phẩm chất đạo đức "đủ oai tín", phương pháp công tác thân dân, "chí công vô tư" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Năm là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong thực hiện kiểm tra, giám sát/kiểm soát; "tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng với giám sát của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực"(14). Đồng thời, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát/kiểm soát trên tinh thần cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên phải hướng về cơ sở, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và ý kiến góp ý, phê bình của nhân dân theo đúng phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Thông qua đó, giúp tổ chức đảng tại địa phương, cơ quan, đơn vị và nơi cán bộ, đảng viên sinh sống phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân để kịp thời giáo dục, uốn nắn, sửa chữa nhằm "trị bệnh cứu người", góp phần xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh./. Gia Nguyên Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản
| 09/07/2022 7:00 CH | Đã ban hành | | Lãnh đạo đúng tất yếu phải có kiểm tra và giám sát/kiểm soát | Lãnh đạo đúng tất yếu phải có kiểm tra và giám sát/kiểm soát | Để nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát nói riêng, cần thấm nhuần sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ quan trọng này.
|  Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm kè bảo vệ sông Đà ở Cổ Đô, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây (8/7/1958).
Công tác kiểm tra, kiểm soát là một nhiệm vụ quan trọng, gắn liền với hoạt động lãnh đạo của Đảng, với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng không chỉ phải thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn phải đồng thời làm tốt công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh, khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích"(1). Trong hoạt động của Đảng cầm quyền, lãnh đạo và kiểm tra, giám sát/kiểm soát có mối quan hệ biện chứng, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau. Trong đó, kiểm tra được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng quyết định tính đúng đắn và đem lại hiệu lực, hiệu quả trong công tác lãnh đạo của Đảng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thì: "Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1. Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng… 2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng… 3. Phải tổ chức sự kiểm soát"(2) và muốn làm được như vậy thì phải "giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng"(3). Kiểm tra và giám sát/kiểm soát không chỉ là yếu tố cơ bản để người lãnh đạo, cấp ủy, cơ quan lãnh đạo bám sát thực tiễn hoạt động của cơ sở mà còn thông qua đó, giúp cho người lãnh đạo, cấp ủy, cơ quan lãnh đạo có thông tin xác thực được kiểm nghiệm từ thực tiễn, để kịp thời ban hành, điều chỉnh các quyết định một cách linh hoạt, hợp lý, phù hợp với định hướng quản lý, lãnh đạo để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Trong đó, kiểm tra là việc các tổ chức đảng kiểm tra việc chấp hành và thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, giữ gìn kỷ luật trong Đảng; xem xét, phát hiện những hạn chế, bất cập, thiếu sót trên mọi phương diện trong quá trình tổ chức thực hiện và đánh giá, kết luận về những ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm… của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và của đảng viên trên tinh thần thấm nhuần lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời"(4). Hơn nữa, thực tế cho thấy "chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra", cho nên cách thức tiến hành kiểm tra theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là: "1. Kiểm tra phải có hệ thống nghĩa là khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy... 2. Kiểm tra không nên chỉ bằng cứ vào các tờ báo cáo, mà phải đi đến tận nơi. 3. Kiểm tra phải dùng cách thức thật thà tự phê bình và phê bình, để tỏ rõ hết mọi khuyết điểm và tìm cách sửa chữa những khuyết điểm ấy. Như thế, thì cán bộ càng thêm trọng kỷ luật và lòng phụ trách"(5). Không chỉ có vậy, muốn kiểm tra đạt hiệu quả, theo Người, "người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra, mới đủ kinh nghiệm và oai tín"; đồng thời, "cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm và giàu năng lực giúp mình đi kiểm tra" trên tinh thần "ai đi kiểm tra việc gì, nơi nào có sơ suất gì thì người ấy phải chịu trách nhiệm"(6). Quán triệt nguyên tắc cách thức kiểm tra đúng, sử dụng cán bộ làm công tác kiểm tra đủ tiêu chuẩn và tiến hành kiểm tra cẩn trọng, chu đáo, theo đúng lộ trình thì tất yếu sẽ giúp cho các cá nhân, tổ chức kịp thời thấy rõ được những khuyết điểm, những khó khăn; đồng thời, tìm cách giúp đỡ để cá nhân, tổ chức vượt qua được mọi sự khó khăn và sửa đổi các khuyết điểm. Còn giám sát/kiểm soát là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động để kịp thời chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn biết các nghị quyết, chỉ thị có được thi hành không, thi hành có đúng, có nghiêm không; muốn chống các bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, sự lãng phí và các biểu hiện tiêu cực; muốn biết tổ chức đảng và cá nhân "ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát". Người cũng chỉ rõ, muốn giám sát/kiểm soát đúng, hiệu quả thì công việc này phải được thực hiện "có hệ thống, phải thường làm"; phải được thực hiện theo hai cách, "một cách là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình" và "một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên"; đồng thời, người thực thi nhiệm vụ quan trọng này phải "là những người rất có uy tín". Cách thức để giám sát/kiểm soát đúng theo nguyên tắc tập trung dân chủ chính là các đảng viên thực hiện trách nhiệm "nghe những người lãnh đạo báo cáo công việc", "phê bình những khuyết điểm", "cử hoặc không cử đồng chí nọ hoặc đồng chí kia vào cơ quan lãnh đạo"(7); là quần chúng kiểm soát những người lãnh đạo bằng cách "phê bình và bày tỏ ý kiến, bầu cử các ủy ban, các hội đồng,v.v.". Việc giám sát/kiểm soát theo tư tưởng Hồ Chí Minh được triển khai chất lượng và hiệu quả không chỉ góp phần "biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu", "biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan" mà còn giúp cấp ủy, tổ chức đảng "biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết" và nhất là khi "kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi"(8)… Cũng theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát đều phải dựa vào nhân dân. Lý do phải dựa vào dân chúng và cần phải có dân chúng tham gia là vì, "những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy, sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại"(9). Hơn nữa, không chỉ kiểm tra mà phải giám sát/kiểm soát cũng đều phải được tiến hành tận nơi, sát người, sát việc, không được/không nên chỉ thuần túy dựa vào hệ thống báo cáo mà phải phải kết hợp cả phương pháp trực tiếp và gián tiếp để bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Muốn có kết quả xác thực, khách quan để đưa ra những quyết định và các biện pháp xử lý đúng tính chất của từng vụ, từng việc thì người/tổ chức thực thi nhiệm vụ này phải đi đến tận nơi, tận chỗ nắm thông tin, tình hình để thẩm tra, xác minh, phân tích và đánh giá, kết luận vụ/việc một cách công bằng, chính xác. Đặc biệt, để hoàn thành nhiệm vụ được giao thì chủ thể kiểm tra - "Các ủy ban và cán bộ kiểm tra phải học tập và thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, phải luôn luôn chú ý nâng cao khả năng chuyên môn, phải cố gắng công tác, phải trau dồi đạo đức cách mạng. Đặc biệt là phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng. Phải chí công vô tư, không thiên vị, không thành kiến"(10). Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra và giám sát/kiểm soát, phải chú trọng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trên tinh thần đoàn kết, "thương yêu đồng chí lẫn nhau" để vừa giáo dục, thuyết phục, uốn nắn đảng viên, cán bộ vừa định hướng công tác lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; đồng thời phát huy được dân chủ. Thực tế, bên cạnh sự tự giác của con người, thì việc kiểm tra và giám sát/kiểm soát đúng và trúng sẽ "có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Kiểm tra là hoạt động tất yếu và có vai trò quan trọng trong công tác lãnh đạo. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức"(11). Việc chú trọng và thường xuyên kiểm tra và giám sát/kiểm soát giúp cho mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ giữ vững được định hướng chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng mà còn thiết thực góp phần cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; không chỉ góp phần quan trọng vào việc thực hiện đúng, bảo vệ nghiêm chủ trương, đường lối, các nguyên tắc và kỷ luật của Đảng mà còn góp phần tăng cường đoàn kết, thống nhất nội bộ, xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Gia Nguyên Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản
| 07/07/2022 7:00 CH | Đã ban hành | | Giá trị trường tồn của Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh | Giá trị trường tồn của Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh | Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực cách mạng. Người ta thường cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động - hành động nhằm giải phóng con người.
|  Bác Hồ với các cháu thiếu nhi ở Chiến khu Việt Bắc, năm 1950. (Ảnh: Nguyễn Hồng Nghi)
Yêu thương và quý trọng con người là một trong những đức tính đặc sắc nhất của đạo đức Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách "Học tập đạo đức Hồ Chí Minh"(*), đồng chí Võ Nguyên Giáp có bài viết nêu rõ: "Nghiên cứu cuộc đời và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rất rõ ở Người chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, truyền thống văn hóa phương Đông, phương Tây và sự phát triển chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác. Sự tổng hợp đó hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - hiện thân cao nhất của chủ nghĩa nhân văn hiện thực của người Việt Nam trong thời đại cách mạng giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa". Đồng chí còn viết cụ thể: "Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở tấm lòng thương yêu con người, thương yêu nhân dân hết sức rộng lớn, sâu sắc. Người đã từng khái quát về triết lý cuộc sống: "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ và bị áp bức". Cùng với ý ấy, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: Như phần nhiều các nhà hiền triết cổ kim Đông Tây, thương người là một đức tính lớn của Cụ Hồ, nó quán triệt mọi lời nói, việc làm của Cụ từ ngày Cụ hoạt động cách mạng... Suốt sáu mươi năm, một lòng thương người, vì người, một lòng nhân ái. Giáo sư đặt câu hỏi: "Vậy nếu thương người là nhân ái thì nhân ái của Cụ Hồ có gì khác với nhân ái Khổng, Mặc chăng hay chỉ là một?". Và tự trả lời: "Có phần khác không nhỏ". Thương người (của Cụ Hồ) là biết xót xa đến thân phận những người cùng khổ nhất trong số những người cùng khổ,... cũng là thương các dân tộc mang xiềng xích thực dân. Thương không phải là tỏ mối thông cảm từ trên và từ ngoài mà tìm cách làm cho người lao khổ và dân tộc bị áp bức tự mình cởi ách ngựa trâu, chứ không phải bằng cách mòn bánh xe, móng ngựa để du thuyết các vương hầu. Mỗi thời đại một khác. Đi vào cách mạng, Người đặt vấn đề tự do và vấn đề hạnh phúc đi đôi. Có người Mỹ nói Cụ Hồ vừa là Washington vừa là Lincoln. Đúng là như vậy. Mà Cụ Hồ còn đi xa hơn nữa trên hướng nhân ái thiết thực. Vẫn theo lời đồng chí Võ Nguyên Giáp: Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực cách mạng. Người ta thường cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động - hành động nhằm giải phóng con người. Thủ tướng Phạm Văn Đồng - người học trò xuất sắc cũng là người cộng sự gần gũi của Bác Hồ - đã viết rất ân tình: Những tư tưởng lớn của Hồ Chủ tịch là những tình cảm lớn. Bác Hồ là "muôn vàn tình thương yêu" đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình thương yêu đó, có chỗ cho mọi người, không quên, không sót một ai. Thương yêu và quan tâm chăm sóc mọi tầng lớp đồng bào, trai gái, già trẻ, đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, kiều bào ở nước ngoài. Bác Hồ đặc biệt ân cần chăm lo các chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân, là những người chiến đấu quên mình trên tiền tuyến; các cháu thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, là lớp người thừa kế sự nghiệp cách mạng; chị em phụ nữ anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang trong sản xuất và chiến đấu; đồng bào các dân tộc ít người, đã và sẽ tiếp tục có cống hiến cao quý vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trong lòng Bác, đồng bào miền Nam, thành đồng Tổ quốc, chiếm một vị trí đặc biệt,... Đã có biết bao câu chuyện sống động về tư tưởng nhân văn, lòng thương yêu con người và đức hy sinh cao cả của Bác, kể sao cho xiết. Cả cuộc đời làm cách mạng, Bác "chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân tộc ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Bác "ăn không ngon ngủ không yên khi đồng bào còn chịu khổ". Bác nêu tấm gương kính già, yêu trẻ. Kính già đến mức gửi thư chúc một phụ lão cứu quốc ở tuổi thượng thọ đã không tổ chức lễ mừng mà đem số tiền 500 đồng tiết kiệm được quyên vào Quỹ Kháng chiến, Hồ Chủ tịch tự xưng mình là cháu: "Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ và trân trọng chúc cụ sống lâu và hoàn toàn mạnh khỏe". Yêu trẻ đến mức Tết Trung thu nào cũng có lời thơ chúc. "Trung thu trăng sáng như gương/ Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng". Và các cháu thì hát vang: "Không ai yêu Bác Hồ Chí Minh bằng chúng em nhi đồng". Với đồng bào các dân tộc, Bác từng nói: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê-đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau". Với đồng bào các tôn giáo, bao giờ Bác cũng nêu lên cái tinh hoa của giáo lý. Với đồng bào theo đạo Thiên chúa, Bác viết: "Kinh thánh có câu: Ý dân là ý Chúa. Con đường yêu nước mà đồng bào đang đi là hoàn toàn đúng." Với đồng bào theo đạo Phật, Bác viết: "Đồng bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam đều cố gắng thực hiện lời Phật dạy là: Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha" (Đem lại lợi ích và vui sướng cho mọi người. Quên mình vì người khác). Với những người lầm đường, lạc lối, Người cũng mở lượng khoan dung: "Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Phải thực hành chữ BÁC ÁI". Nhà thơ Tố Hữu nói tự đáy lòng mình: Người là Cha, là Bác, là Anh Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ Bác sống như trời đất của ta Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa Tự do cho mỗi đời nô lệ Sữa để em thơ, lụa tặng già. Và: Bác ơi, tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông mọi kiếp người! Tư tưởng nhân văn hiện thực, tình yêu thương bao la và cuộc sống bình dị của Bác có sức cảm hóa lớn. Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng cao đẹp của một nhân cách Con Người tầm cỡ thế giới. Nhà báo Jean Roux trong báo Chiến đấu (Pháp) viết: "Từ ba mươi năm nay, trong số các nhân vật mà tôi gặp được, chắc chắn Cụ Hồ là đáng khâm phục nhất. Cụ là người hoàn toàn đáng được mọi người ca ngợi, bởi vì Cụ đã kết hợp đến mức nhuần nhuyễn phi thường chủ nghĩa anh hùng với đầu óc sáng suốt, lòng yêu nước tuyệt vời, tinh thần cách mạng trong sáng, thái độ cứng rắn trước cuộc sống với lòng nhân đạo đối với con người". Nhà báo Montaron trên báo Bằng chứng Thiên chúa giáo, cũng viết: "Cụ Hồ Chí Minh là một trong những chiến sĩ lần đầu tiên của thế giới thứ ba, của các dân tộc nghèo đói nhằm thèm khát một cuộc sống cho ra người… Cụ đã đem hết sức mình để mang lại cơm ăn nước uống cho những ai đói khát. Cụ đã bênh vực cho những người yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người nghèo khổ". Burchett, nhà báo Australia nổi tiếng, nhận xét: Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có một ai khác ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh… Người ta không thể trở thành một Hồ Chí Minh nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một điều gì làm cho mình tốt hơn. Và thật cảm động, Thủ tướng Jawaharlal Nehru trong cuộc tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Ấn Độ (năm 1958) đã nói một cách chân tình: "Chúng ta đã được tiếp xúc với một người. Người đó là một phần của lịch sử châu Á. Ngoài phần gặp gỡ một con người vĩ đại, chúng ta đã gặp một mảng lịch sử của lịch sử. Do đó, có lẽ chúng ta không chỉ được tăng thêm về suy nghĩ mà còn được tăng thêm cả về tầm vóc". Sẽ không thừa nếu nhắc lại: Năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức UNESCO đã vinh danh Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới./. Gia Nguyên Theo Tạp chí Tuyên giáo
| 04/07/2022 7:00 CH | Đã ban hành | | Thượng tá Bùi Quang Ngọc và tập thể Ban CHQS huyện Đức Huệ xuất sắc được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ | Thượng tá Bùi Quang Ngọc và tập thể Ban CHQS huyện Đức Huệ xuất sắc được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ | Đức Huệ là huyện biên giới của tỉnh Long An, có đường biên giới dài 25,39 km giáp huyện Chanhtria, tỉnh Svây Riêng, Vương quốc Campuchia có nhiều đường mòn, lối mở trên tuyến biên giới nên việc kiểm soát người qua lại trong phòng chống covid là hết sức khó khăn. Trong đợt dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 năm 2021, LLVT huyện thực hiện nghiêm chỉ đạo của Bộ CHQS tỉnh Long An đã tập trung thực hiện "chống dịch, cứu dân" giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khăn do đại dịch Covid -19 gây ra.
|
Thượng tá Bùi Quang Ngọc - Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Đức Huệ phát biểu tại hội nghị sơ kết
Xác định mức độ quan trọng của nhiệm vụ phòng chống dịch Covid-19, Đảng uỷ Ban CHQS huyện đã tổ chức quán triệt sâu sắc Lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, của Thủ tướng Chính phủ, của Thường vụ Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng và của Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Quân khu cũng như của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Bộ CHQS tỉnh Long An trong phòng, chống dịch Covid-19. Song song đó, Đảng ủy – Ban CHQS huyện đã cụ thể hoá Nghị quyết lãnh đạo, Ban CHQS huyện xây dựng kế hoạch đẩy mạnh nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 trong LLVT huyện. Mặt khác, tích cực tham mưu, đề xuất, hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đảm bảo hài hoà giữa quốc phòng-an ninh và phòng, chống dịch, trong đó công tác phòng, chống dịch được đặt lên hàng đầu. 
Để thể hiện quyết tâm chống dịch bằng việc làm cụ thể, Ban CHQS huyện đã xây dựng kế hoạch tổ chức phát động phong trào thi đua "LLVT Đức Huệ xung kích trên tuyến đầu chống dịch" và kế hoạch phát động đợt thi đua đặc biệt chủ đề: "Chống dịch cứu dân trong LLVT huyện". Qua phát động và triển khai nhiệm vụ phòng, chống dịch, 100% cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân khu, Tỉnh ủy, UBND tỉnh về công tác phòng chống dịch Covid-19, nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự lực, tự cường, tự giác, tích cực tham gia phòng chống dịch Covid-19 nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và chiến thắng dịch bệnh. Cán bộ chiến sĩ LLVT huyện luôn xác định "giặc Covid-19" còn hoành hành thì hơn lúc nào hết và hơn ai hết từng cán bộ, chiến sĩ thấu triệt phương châm "Chống dịch như chống giặc" không quản ngại gian khổ, luôn sẵn sàng xung kích trên tuyến đầu, sát cánh cùng nhân dân "đánh giặc, diệt giặc", bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân nhằm giúp người dân ổn định cuộc sống, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã trao gửi. 
Trong thời gian cao điểm chống dịch, bên cạnh việc chấp thành triệt để Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ về giãn cách xã hội, LLVT huyện đã duy trì nghiêm lệnh cấm trại của Tư lệnh Quân khu và đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 660 của Đảng uỷ Quân khu về mở chiến dịch cao điểm giúp dân vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra. Ban CHQS huyện đã tham mưu Ban Chỉ đạo UBND huyện, thành lập 01 bệnh viện dã chiến và 04 khu cách ly tập trung, hoàn thành cách ly 16 đợt cho 1.701 người bảo đảm an toàn tuyệt đối. LLVT huyện luôn thực hiện nghiêm chỉ đạo của Bộ CHQS tỉnh dốc toàn lực cho "mặt trận" phòng, chống dịch, điều động hơn 82 cán bộ chiến sĩ thường trực, hơn 200 DQTV tăng cường đến vùng tâm dịch, lấy mẫu bệnh phẩm, truy vết F0 trong cộng đồng và phục vụ các khu cách ly, canh gác đường mòn lối mở trên tuyến biên giới, phục vụ các chốt chống dịch trên địa bàn Đức Huệ và tăng cường huyện Đức Hòa. Chỉ đạo LLVT huyện phát huy các nguồn lực, trực tiếp vận động mạnh thường quân, nhà hảo tâm hỗ trợ kinh phí và trích nguồn kinh phí tăng gia sản xuất của đơn vị mua lương thực, thực phẩm, vật tư y tế, các nhu yếu phẩm thiết yếu cấp phát, giúp đỡ, gửi đến Nhân dân vượt qua khó khăn trong đại dịch, tổng giá trị tương đương số tiền hơn 450.000.000 đồng. Chỉ đạo Ban CHQS xã, thị trấn phối hợp Ban ngành, đoàn thể xã tổ chức quầy hàng 0 đồng với phương châm "ai dư đem cho, ai thiếu đến nhận", đã hỗ trợ nhân dân huyện nhà trên 200 tấn rau, củ, quả và các nhu yếu phẩm khác, trị giá trên 350.000.000 đồng. 
Cán bộ chiến sĩ Ban CHQS huyện Đức Huệ nhận giấy khen của Chủ tịch UBND huyện Đức Huệ vì thành tích xuất sắc trong công tác phối hợp các lực lượng phòng chống dịch Covid-19 Đảng ủy – Ban CHQS huyện lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ LLVT huyện đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức phòng, chống dịch cho nhân dân trên địa bàn. Không được chủ quan, lơ là, dựa dẫm vào cấp trên, vào ngành y tế. Quá trình chống dịch vừa đảm bảo nhiệm vụ SSCĐ, nhiệm vụ QP,QSĐP, LLVT huyện vừa làm tốt công tác tăng gia sản xuất, huy động mọi nguồn lực để giúp đỡ nhân dân. Bên cạnh đó bản thân đã góp phần chỉ đạo LLVT huyện luôn đi đầu, đấu tranh trên không gian mạng, đã đăng tải hàng ngàn lượt bài viết với hàng triệu lượt tiếp cận; kiên quyết phản bác, đấu tranh các quan điểm sai trái, chia rẽ sức mạnh đoàn kết quân-dân, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch. Bằng cách làm này càng toả sáng hơn phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ", sẵn sàng nhận nhiệm vụ nguy hiểm, nguy cơ lây nhiễm cao để "cứu dân" trong đại dịch. Là người "đứng mũi, chịu xào", một trong những cá nhân tích cực tiêu biểu, là thành viên Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 UBND huyện Đức Huệ, trong đợt dịch Covid -19 vừa qua, Thượng tá Bùi Quang Ngọc - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện, đã cùng tập thể Đảng ủy Ban CHQS huyện lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ Quốc phòng, quân sự địa phương, phát huy vai trò gương mẫu của người đứng đầu, nhận thức sâu sắc nhiệm vụ, tham mưu cho huyện uỷ, UBND huyện lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn huyện và lãnh đạo, chỉ đạo phòng chống, đẩy lùi dịch Covid-19 trong LLVT huyện. Những việc làm ý nghĩa của Tập thể Ban CHQS huyện và cá nhân Thượng tá Bùi Quang Ngọc đã được cấp ủy, chính quyền, nhân dân và dư luận xã hội đánh giá cao, tô thắm thêm hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ - người chiến sĩ quân đội trong lòng nhân dân. Cán bộ chiến sĩ đã phát huy cao độ phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ", ý chí tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, ra sức thi đua lập nhiều thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ "chiến đấu trong thời bình", luôn xứng đáng với sự tin tưởng, yêu mến của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Ghi nhận thành tích xuất sắc trong công tác phòng chống dịch Covid-19 cán bộ, chiến sĩ LLVT huyện đã được Bộ Quốc phòng tặng Bằng khen cho 03 cá nhân, Bộ Tư lệnh Quân khu 7, UBND tỉnh Long An khen thưởng cho 02 tập thể 04 cá nhân cùng với 14 tập thể và 45 cá nhân được khen thưởng ở các cấp. Đặc biệt, ngày 07/12/2021 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 2063/QĐ-TTg tặng Bằng khen cho Tập thể Ban CHQS huyện và Thượng tá Bùi Quang Ngọc – Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Đức Huệ vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác phòng chống dịch Covid-19. Tin tưởng rằng, với những kết quả đạt được, Đảng ủy – Ban CHQS huyện Đức Huệ sẽ tiếp tục phát huy, tranh thủ sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo các cấp, tiếp tục vận động cán bộ, chiến sĩ quyết tâm, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức; nỗ lực phấn đấu, liên tục, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong năm 2022, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của LLVT nói riêng và Huyện Đức Huệ nói chung trong thời gian tới. Đoàn Sang
| 01/07/2022 8:00 SA | Đã ban hành | | Ông Lê Thái Bình kịp thời cứu sống người dân bị đuối nước ven sông Vàm Cỏ Đông | Ông Lê Thái Bình kịp thời cứu sống người dân bị đuối nước ven sông Vàm Cỏ Đông | Công an xã Mỹ Thạnh Bắc (huyện Đức Huệ) thông tin, vào lúc 9 giờ 30 phút ngày 22/6/2022 ông Nguyễn Văn Kiên (Sinh năm 1965) cùng vợ là Nguyễn Thị Minh Bạch (Sinh năm 1969, HKTT: ấp 1 xã Mỹ Quý Đông, huyện Đức Huệ) điều khiển xuồng máy dầu chở nước sạch cung cấp cho người dân ven sông Vàm Cỏ Đông, khi điều khiển ghe đến đoạn sông khu vực Bà Mùi thuộc ấp 2, xã Mỹ Thạnh Bắc thì bất ngờ bà Bạch ngồi trên ghe bị trượt chân té ngã xuống Sông.
|
Ông Lê Thái Bình Do bà Bạch không biết bơi nên ông Kiên hốt hoảng kêu cứu và nhảy xuống sông cứu vợ. Tuy nhiên, do sông sâu, nước đang lớn nên không cứu được vợ. Bản thân ông Kiên bị kiệt sức có biểu hiện đuối nước. Ngay lúc đó, ông Lê Thái Bình (sinh năm 1966, hộ khẩu thường trú ấp An Thủy, xã An Ninh Tây, huyện Đức Hòa) sống ven sông Vàm Cỏ Đông nghe tiếng kêu cứu, lập tức bơi xuồng qua sông để cứu người. Sau khi kéo ông Kiên lên xuồng, ông Bình nhanh chóng đưa xuống vào bờ để người dân đưa ông Kiên cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Đức Huệ. Riêng vợ ông Kiên đến ngày hôm sau (23/6/2022) mới tìm được xác. Như Huỳnh
| 24/06/2022 8:00 SA | Đã ban hành | | Kỷ niệm 97 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2022): Bác Hồ với báo chí cách mạng Việt Nam | Kỷ niệm 97 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2022): Bác Hồ với báo chí cách mạng Việt Nam | Không chỉ là người khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam, suốt cuộc đời làm cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng hơn 100 bút danh, hàng nghìn bài báo, gần 300 bài thơ và khoảng 500 trang truyện và ký. Không chỉ có vậy, di sản báo chí mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại còn là những bài học, những lời căn dặn cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
| 
Bác Hồ với các nhà báo tại Đại hội lần thứ II, Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 16/4/1959. Ảnh: TL. Khai sinh nền báo chí cách mạng Năm 1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình lao động, học hỏi và giác ngộ cách mạng, Bác bắt đầu quan tâm đến một phương tiện thông tin phổ biến, nhiều tác dụng là báo chí. Cuối năm 1917, khi trở lại Pháp, tuy vốn ngôn ngữ chưa đủ để viết báo nhưng với tinh thần quyết tâm cao, Bác Hồ tự học tiếng và học làm báo. Những ngày đầu, Người được Longuet - cháu ngoại của Karl Marx, làm việc ở báo Sinh hoạt công nhân - nhiệt tình chỉ dẫn nghiệp vụ báo chí đơn giản. Từ những mẩu tin, bài, tư liệu tản mạn có chủ đề nhỏ, Bác viết thành các bài có chủ đề lớn, tập trung. Những bài viết của Bác đăng trên báo cánh tả là các báo có ngân quỹ ít ỏi nên hầu như không có nhuận bút, nhưng lại mang ý nghĩa tinh thần rất lớn. Vì vậy, ban ngày Bác đi làm, tối tham gia mít tinh, biểu tình, vận động cách mạng, đêm lại ngồi cặm cụi viết báo. Ngày 28/6/1919, hội nghị các nước thắng trận trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất khai mạc tại Versailles. Thay mặt những Việt kiều, Bác viết và gửi đến hội nghị bản yêu sách 8 điểm đòi quyền lợi cho nhân dân Việt Nam. Đây cũng là bài viết nổi tiếng đầu tiên của Bác Hồ được cơ quan ngôn luận Đảng Xã hội Pháp đăng dưới nhan đề Quyền các dân tộc. Trong bài này, Người đã đưa ra 8 yêu sách thiết thực, đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền độc lập tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, trong đó có cả quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí... Năm 1921, Bác Hồ (với tên Nguyễn Ái Quốc) cùng một số chính khách thành lập Hội Liên hiệp Thuộc địa và năm 1922 lập ra Le Paria (Người cùng khổ) là cơ quan ngôn luận của Hội. Le Paria với số đầu xuất bản ngày 1/4/1922 đã thể hiện tinh thần đoàn kết và giải phóng con người. Nguyễn Ái Quốc trở thành nòng cốt của tờ báo với 38 bài viết, vừa là biên tập viên chính, vừa là phóng viên, nhiếp ảnh viên kiêm việc tổ chức, quản lý, phát hành. Tháng 11/1924, Bác Hồ được Quốc tế Cộng sản phân công về Quảng Châu (Trung Quốc), tổ chức huấn luyện cán bộ cách mạng, thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, với Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận. Báo Thanh niên số 1 ra ngày 21/6/1925, đến tháng 4/1927 ra đều đặn được 88 số (kỳ) bằng tiếng Việt tại số nhà 13A, đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung Quốc, in trên giấy sáp. Người đã trực tiếp chỉ đạo, biên tập, trình bày và viết nhiều bài chính luận sắc bén. Báo chuyển về nước bằng đường thủy, tới các tổ chức cảm tình của Hội, các chi bộ, các cơ sở Việt kiều ở Pháp, Thái Lan, Nga. Tháng 12/1926, Bác Hồ lập ra báo Công nông cho giai cấp công nhân và nông dân nước ta. Tháng 1/1927, báo Lính kách mệnh (tiền thân của báo Quân đội nhân dân ngày nay) dành cho đội ngũ chiến sỹ cách mạng cũng được Bác Hồ sáng lập. Các báo này đều xuất bản chủ yếu bằng tiếng Việt, nhưng còn có cả một số tin, bài bằng tiếng Hán, Pháp, Anh... hình thức mới mẻ mà gần gũi, nội dung phong phú nhưng luôn bám sát các chủ trương, mục tiêu cách mạng. Từ ngày 3 - 7/2/1930, tại Hồng Kông (lúc đó là thuộc địa của Anh, nay trở lại với Trung Quốc), Bác Hồ trực tiếp tổ chức, chỉ đạo Hội nghị thống nhất các đảng phái, phong trào cộng sản ở Việt Nam để thành lập một đảng mới với tên Đảng Cộng sản Việt Nam, quyết định đình bản những tờ báo riêng rẽ của các tổ chức đảng trước đây, còn lại cho xuất bản báo Tranh đấu và tạp chí Đỏ, những số đầu phát hành vào tháng 8/1930. Trong thời kỳ này, với nhiều bút danh khác nhau, Bác Hồ còn cộng tác với các báo tiến bộ trong nước, đồng thời viết hàng loạt bài cho những tờ báo cách mạng nổi tiếng thế giới: L' Humanité (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp, La Vie d'Ouvriers (Đời sống thợ thuyền) của Liên đoàn Lao động Pháp, Mezdunarodnaia Telegramma (Điện tín Quốc tế) của Quốc tế Cộng sản III, Pravda (Sự thật) của Đảng Cộng sản Liên Xô... Những bài học để lại cho báo chí cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp phát triển báo chí cách mạng Việt Nam và việc đào tạo đội ngũ cán bộ làm báo. Bằng chính kiến thức và kinh nghiệm của mình, Bác tận tâm chỉ dẫn nghiệp vụ cho các nhà báo như một đồng nghiệp, một người bạn, người anh, người thầy. Ngày 17/8/1952, trong buổi nói chuyện tại trường Chỉnh Đảng Trung ương ở rừng Việt Bắc, Bác Hồ đã nêu rõ 4 vấn đề cơ bản trước những cán bộ báo chí: "Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?" và đưa ra cách giải quyết cặn kẽ, phù hợp các vấn đề đó. Tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam tháng 9/1962, Bác Hồ cũng thẳng thắn phê bình những khuyết điểm của báo chí nước nhà bấy giờ: "Bài báo thường quá dài, "dây cà ra dây muống", không phù hợp với trình độ và thời gian của quần chúng...", "Thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng thành tích, mà ít hoặc không nói đúng mức đến khó khăn và khuyết điểm của ta...", "Đưa tin tức hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng...", "Thiếu cân đối: Tin nên dài thì viết ngắn, nên ngắn thì viết dài, tin để sau thì để trước, nên trước lại để sau..."... Nhưng Người cũng luôn khẳng định giá trị to lớn của báo chí: "Báo chí là công cụ tuyên truyền, cổ động, tổ chức, lãnh đạo...", "Báo chí là vũ khí sắc bén, nhanh nhạy, đại chúng, phục vụ kịp thời...". Từ lời dạy của Bác, người làm báo hôm nay có thể đúc rút được một số bài học như sau: Thứ nhất, viết báo phải có căn cứ: Người viết báo phải có trách nhiệm cao trước nội dung bài báo của mình, phải có căn cứ để thuyết phục. Không được vội vàng mới nghe qua đã viết, không được chủ quan, suy đoán, mà phải có điều tra, nghiên cứu kỹ. Thứ hai, viết cho sát đối tượng: Bài báo phải có cơ sở thực tiễn và khoa học mới đạt được tính thuyết phục cần thiết cho đối tượng. Thứ ba, viết ngắn gọn, giản dị: Phải đi thẳng vào nội dung, không lan man khoe chữ làm ra vẻ nhiều kiến thức. Thứ tư, viết sinh động, lôi cuốn: Đây là một nhu cầu thường xuyên để thu hút người đọc. Thứ năm, viết thẳng thắn, có tính chiến đấu: Làm báo là tham gia vào cuộc đấu tranh tư tưởng bằng những thông tin chọn lọc, có căn cứ, phê bình những thói hư tật xấu trong sinh hoạt xã hội và xây dựng đạo đức mới. Việc này đòi hỏi người viết báo phải có bản lĩnh nghề nghiệp, dám bảo vệ cái đúng, không uốn cong ngòi bút. Thứ sáu, khiêm tốn sửa bài của mình: Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, hoạt động báo chí của mình, do luôn nắm vững đối tượng và mục đích viết nên Người "viết gì cũng đưa cho một đồng chí xem lại, chữ nào khó hiểu thường các đồng chí bảo cho mình sửa". Thứ bảy, điều nhất thiết là cán bộ báo chí phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng: Bác Hồ - với tư cách là một nhà báo cách mạng luôn đòi hỏi nhà báo cách mạng không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà còn phải có đạo đức tốt và trong sáng. 97 năm trôi qua, báo chí cách mạng đã có sự lớn mạnh, phát triển không ngừng. Nhưng dù với công nghệ nào thì những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với báo chí vẫn còn nguyên giá trị và là kim chỉ nam cho hoạt động báo chí nước nhà. Gia Nguyên Nguồn: http://www.baohoabinh.com.vn/11/167121/ky-niem-97-nam-ngay-Bao-chi-cach-mang-Viet-Nam-2161925-2162022
| 21/06/2022 4:00 SA | Đã ban hành | | Bác Hồ với sự nghiệp Báo chí Cách mạng Việt Nam | Bác Hồ với sự nghiệp Báo chí Cách mạng Việt Nam | Nhân dịp kỷ niệm 97 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2022), chúng ta càng tự hào và khắc ghi lời Bác không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành; luôn giữ 'tâm sáng, lòng trong, bút sắc', góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ báo chí trong và ngoài nước tại Thủ đô Hà Nội 5/1968 (Ảnh tư liệu) Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, người thầy vĩ đại của Báo chí Cách mạng (BCCM) Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm tham gia các hoạt động báo chí. Khi hoạt động tại Pháp, Người đã tham gia sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) để tạo một kênh thông tin, lên tiếng tố cáo bản chất tàn bạo của thực dân Pháp, làm cho nhân dân thế giới biết đến cuộc sống "cùng khổ" của người dân Việt Nam. Từ đó lên tiếng ủng hộ Việt Nam trong đấu tranh "tự giải phóng". Khi ở Trung Quốc, Người đã sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1/6/1925) - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 21 tháng 6 năm 1925, Báo Thanh niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đây là tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, trực tiếp chỉ đạo và là cây bút chủ chốt. Sự kiện lịch sử này đặt dấu mốc khởi nguồn cho sự ra đời, không ngừng phát triển của BCCM Việt Nam. Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Người căn dặn: "Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe?". Trong bài giảng về cách viết tại lớp chỉnh Đảng Trung ương ngày 17/8/1953, Người cũng chỉ rõ: "Phải đặt câu hỏi: Viết cho ai?... viết để làm gì? viết cái gì". Sở dĩ, Bác nêu yêu cầu viết cho ai rồi sau đó mới đến yêu cầu viết để làm gì, để sẽ giúp cho các nhà báo luôn luôn nghĩ đến con người, vì con người, hướng dẫn con người, định hướng cho con người. Và có biết rõ là viết cho ai thì mới biết là viết để làm gì, viết như thế nào. Trong "Thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng" năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng. Một tờ báo không được đại đa số dân chúng ham chuộng thì không xứng đáng là một tờ báo". Bác Hồ xác định rất rõ đối tượng đối tượng tác động, đối tượng phục vụ chủ yếu của báo chí là số đông quần chúng nhân dân. Đây là sự xác định dứt khoát, thể hiện tính chất tiến bộ, mới mẻ của nền báo chí cách mạng, nền báo chí nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng sáng lập. Báo chí phản ánh ý chí và nguyện vọng của số đông người dân lao động là chủ thể của cách mạng Nhà báo viết phản ánh tâm tư quần chúng nhân dân là trách nhiệm, lương tâm của người làm báo đòi hỏi người cầm bút phải không ngừng rèn luyện, "đi sâu vào thực tiễn, gắn bó với cuộc sống đang biến chuyển mạnh mẽ". Từ kinh nghiệm hoạt động báo chí của Người, từ quan điểm của Người về hiệu quả, công dụng của báo chí truyền thông, Bác Hồ đã lưu ý trước tiên đề tài cho người cầm bút là "những điều mắt thấy tai nghe", "những người tốt, việc tốt", "những người, những việc vô cùng anh dũng, oanh liệt" trong chiến đấu và sản xuất, trong phong trào thi đua yêu nước. Nhà báo Hồ Chí Minh đề cao tính "chân thực" bởi nó vừa là sức mạnh của bài nói, bài viết cũng đồng thời là thước đo đạo đức của người làm báo cách mạng. Mỗi bài viết của nhà báo phải đúng sự thật, tức là phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống với những con số, những sự kiện đã được xem xét kiểm tra, chọn lọc. Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam ngày 8/9/1962, sau khi góp ý với các nhà báo về các lỗi như bài báo thường quá dài, "dây cà ra dây muống" không phù hợp với trình độ và thời giờ của quần chúng, thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng các thành tích, đưa tin tức hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng, thiếu cân đối, lộ bí mật, khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều và nhiều khi dùng không đúng… Chủ tịch Hồ Chí Minh chia sẻ: "Kinh nghiệm của tôi là thế này: Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn, dễ đọc? Khi viết xong, thì nhờ anh em xem và sửa giùm".  Bác Hồ với các nhà báo, năm 1947 (Ảnh tư liệu) Dù không thừa nhận mình là một nhà báo chuyên nghiệp nhưng Hồ Chí Minh là một tấm gương hết sức cẩn trọng trong khi làm báo, viết báo. Nhân dịp kỷ niệm Đảng ta 39 tuổi, Người viết bài báo nhan đề Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chỉ riêng đầu đề bài báo cũng đã được Người sửa đi sửa lại mấy lần. Lúc đầu Bác định dùng từ "đập nát" nhưng cho rằng đập vẫn còn mảnh vụn nên thay bằng từ "rửa sạch". Sau Bác thấy từ "rửa sạch" vẫn chưa mạnh mẽ và Bác quyết định sửa lại thành "quét sạch". Nhưng đồng chí phụ trách Ban Tuyên huấn xin sửa lại một ý, đề nghị Bác đổi lại trật tự để vế nâng cao đạo đức cách mạng lên trước với lý do là cán bộ đảng viên ta nói chung là tốt và ưu điểm là căn bản. Bác hỏi thêm ý kiến của đồng chí văn phòng, đồng chí đó cũng đề nghị như vậy. Bác lắng nghe rồi nói: "Ý các chú cũng có lý, nhưng Bác thấy chưa hợp lý. Các chú giảng giải thêm cho Bác rõ điều này. Gia đình các chú tiết kiệm, mua sắm được bộ bàn ghế, giường tủ mới. Trước khi kê vào phòng, các chú quét dọn nhà cửa sạch sẽ hay cứ để rác rưởi bẩn thỉu ?". Thấy mọi người còn suy nghĩ, chưa trả lời, Bác nói luôn: "Vì cả hai chú đã đề nghị, Bác đồng ý nhượng bộ đổi lại ở đề bài còn ở trong bài cứ giữ nguyên như ý của Bác là "Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng". Lúc sinh thời Bác Hồ đọc báo nhanh và rất chính xác, chỗ nào có vấn đề cần chú ý hoặc liên quan đến các cấp, ngành Bác đều ghi chép, đánh dấu những thông tin cần xử lý. Với gương người tốt việc tốt, Bác dùng bút bi hoặc bút chì màu đỏ ghi bên cạnh dấu q, nghĩa là thưởng huy hiệu; chỗ nào cần lưu ý Bác đánh dấu chéo (/); vấn đề nào chưa rõ, Người đánh dấu (?) và yêu cầu văn phòng xác minh lại; khi đã xem xong, Bác vạch hai vạch //. Hoạt động báo chí thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phù hợp, gắn bó với cuộc sống và phục vụ lợi ích nhân dân, Người rất coi trọng đối tượng và hiệu quả tuyên truyền báo chí. Vì vậy, Người khẳng định một tờ báo cần nắm vững mấy điểm chính sau: Nhiệm vụ: Chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Đây là một phương tiện mang tính tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tập hợp quần chúng vì một mục đích chung. Mục đích: Để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôn chỉ: Vì khối đại đoàn kết toàn dân, cùng nhau chung sức thi đua yêu nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đối tượng: Chính yếu là đại đa số quần chúng nhân dân và thành công hay thất bại của một tờ báo phụ thuộc vào đối tượng mà tờ báo phục vụ. Nội dung: Các tờ báo phải chứa đựng những bài viết có nội dung giản đơn, dễ hiểu, sát thực, súc tích nhưng mang trọn ý nghĩa cần thiết cốt để "sao cho mỗi đồng bào, mỗi chiến sĩ đều đọc được, hiểu được, nhớ được, làm được". Hình thức: Cách sắp đặt các bài báo, tranh ảnh minh họa, cách in ấn phải sạch sẽ sáng sủa rõ ràng, không lem nhem nhằng nhịt lờ mờ. Và khi hoàn thành một bài báo mà "quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại là các bạn chưa thành công". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành trọn cả cuộc đời vì Tổ quốc, vì nhân dân. Người viết báo và làm báo cũng chỉ nhằm phục vụ cho mục đích ấy. Phong cách làm báo Hồ Chí Minh - giản dị và sâu sắc, chân thực và ngắn gọn, trong sáng và dễ hiểu mà hiệu quả sắc bén, phục vụ đắc lực cho nhu cầu của nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng của Tổ quốc. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh với phóng viên Báo Việt Nam độc lập, năm 1964 (Ảnh tư liệu) Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển, hiện tượng thương mại hóa trong hoạt động báo chí xuất hiện ngày càng nhiều đòi hỏi người làm báo cách mạng phải thật sự tỉnh táo, sáng suốt, có đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh. Khi đặt bút viết, mỗi nhà báo phải thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?.Những lời dạy của Bác có sức nặng đối với đạo đức, cái tâm của người làm báo trước những trang viết của mình. Tự hào 97 năm ngày BCCM Việt Nam, phát huy thành tích đã đạt được, các cơ quan báo chí, những nhà báo đã luôn luôn khắc ghi lời Bác, không ngừng phấn đấu, khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của người làm báo, xứng đáng là tiếng nói của Đảng, nhà nước và Nhân dân. Gia Khánh Nguồn: https://baomoi.com/bac-ho-voi-su-nghiep-bao-chi-cach-mang-viet-nam/c/42924050.epi
| 20/06/2022 8:00 SA | Đã ban hành | | Tiếp tục chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, bệnh quan liêu để xây dựng và chỉnh đốn Đảng | Tiếp tục chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, bệnh quan liêu để xây dựng và chỉnh đốn Đảng | Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói và viết về vấn đề chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và bệnh quan liêu đều yêu cầu mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức cơ sở Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đều cần phải "thực hành", chứ không chỉ kêu gọi chung chung là "nên làm" hay là "cần làm". Bởi theo Người, chú trọng và thường xuyên phòng và đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và bệnh quan liêu sẽ giúp cho mọi người hiểu nhau hơn, đoàn kết hơn; giúp cho "cán bộ ta cải tạo tư tưởng, nâng cao giác ngộ, thấm nhuần đạo đức cách mạng, giúp chính quyền ta thành một chính quyền trong sạch, xứng đáng với lòng tin tưởng và sự hy sinh của chiến sĩ và đồng bào ta".
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (Ảnh tư liệu). Bởi theo Người, sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cán bộ quản lý chính là một điển hình thực tế, vừa sinh động vừa có giá trị thuyết phục hơn nhiều lần những lời kêu gọi, những bài diễn thuyết sáo rỗng. Và chính Người, từ khi còn bôn ba tìm đường cứu nước, bị tù đày, ở trong chiến khu hay khi đã trở thành người đứng đầu Đảng và Nhà nước thì cũng luôn là một tấm gương đạo đức cách mạng mẫu mực. Người suốt đời phấn đấu, tận tâm, tận lực vì Tổ quốc và nhân dân; luôn giản dị, tiết kiệm thời gian, tiền bạc và tài sản của nhân dân, tránh lãng phí khi không cần thiết. Với Người - không có gì là của riêng, tất cả cuộc đời Người đều thuộc về Tổ quốc và nhân dân và "- Giàu sang không thể quyến rũ, - Nghèo khó không thể chuyển lay, - Uy vũ không thể khuất phục"[14]. Những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ và căn dặn về phòng và đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí và bệnh quan liêu từ thập niên 1950 gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được quán triệt và triển khai thực hiện từ Trung ương đến địa phương, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới, hội nhập. Thực tế, những kết quả đạt được trong đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, bệnh quan liêu thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong những năm miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội… đã đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, cùng với thời gian và nhất là dưới tác động của nền kinh tế thị trường, thì dường như những thói hư, tật xấu, những biểu hiện tiêu cực, suy thoái vốn là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân không những chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà lại càng "trỗi dậy". Văn kiện Đại hội XI, XII, XIII của Đảng đều đã có những đánh giá nghiêm túc về những biểu hiện suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và đi liền cùng đó là yêu cầu phải tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn với phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân nói chung, tham ô, tham nhũng, quan liêu, lãng phí nói riêng. Đặc biệt, cùng với tham ô, tham nhũng, lãng phí và bệnh quan liêu, những biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, đảng viên cũng được chỉ ra trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" (với 27 biểu hiện suy thoái); đồng thời, sẽ tiếp tục được chỉ ra cụ thể theo đúng tinh thần của Quy định số 32-QĐ/TW ngày 16/9/2021 của Bộ Chính trị về "Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực" (ăn cắp vặt; nhận phong bì; cục bộ; lợi ích nhóm; bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất; thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân…). Thực tế toàn cầu hóa sâu rộng cho thấy rằng, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì Việt Nam cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: Đó chính là sự biến chuyển khôn lường của tình hình thế giới và khu vực; là những hệ lụy từ đại dịch Covid-19; từ những ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ, hạn hán và cả những nguy cơ, tác động từ sự suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang đe dọa sự tồn vong của một Đảng cầm quyền. Vì vậy, hơn bao giờ hết, càng tự hào về một Hồ Chí Minh "suốt đời thanh bạch chẳng vàng son", "suốt đời không có gì là của riêng", càng đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì toàn Đảng, toàn quân và toàn dân càng phải quán triệt và hành động để biến những giá trị tinh thần lớn lao trong di sản của Người thành sức mạnh vật chất, để nhân nguồn sức mạnh nội lực dân tộc Việt Nam trong hành trình đi tới tương lai. Có thể khẳng định rằng, 70 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu", những phân tích, cảnh báo và chỉ dẫn của Người vẫn vẹn nguyên giá trị hiện thực. Trong bối cảnh đất nước tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đổi mới, hội nhập quốc tế Đảng càng phải nỗ lực để hoàn thành trọng trách trước Tổ quốc và nhân dân. Vì thế, để Đảng xứng đáng với niềm tin và sự kỳ vọng của nhân dân/xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân như căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì toàn Đảng cần quán triệt và tập trung thực hiện những giải pháp sau: Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy từ Trung ương đến địa phương về yêu cầu phải tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, coi đây là gốc, là nền tảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng theo Nghị quyết Đại hội XIII gắn với đẩy mạnh đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí; gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; gắn với Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm và các Quy định về nêu gương… Hai là, mỗi tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, cơ quan, đơn vị các cấp đều phải chủ động phòng và đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; chống chủ nghĩa cá nhân, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo; phòng và chống nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ gắn với nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát theo kế hoạch, định kỳ, đột xuất các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ theo đúng phương châm gắn chống với xây, xây với chống... Thông qua đó, kịp thời phát hiện, uốn nắn, chấn chỉnh, ngăn chặn các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân từ sớm, từ xa, không để bùng phát, lây lan, làm ảnh hưởng đoàn kết nội bộ và xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, để Đảng trong sạch, vững mạnh từ cơ sở. Ba là, phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, quản lý các cấp; của cán bộ, đảng viên về rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phong cách, phương pháp công tác trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm. Mỗi cán bộ, đảng viên đều phải luôn tự giác thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư gắn với phòng, chống, đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân nói chung, với chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu nói riêng theo đúng tinh thần Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương "về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương"; coi đây là việc làm thường xuyên, nền nếp, trở thành nhu cầu tự thân. Bốn là, thực hiện tốt hơn nữa phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" theo Nghị quyết Đại hội XIII cảu Đảng; dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng; trong phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống các tệ nạn, các biểu hiện tiêu cực, suy thoái trên tinh thần nghiêm túc lắng nghe, tiếp thu những ý kiến phù hợp để sửa chữa, khắc phục khuyết điểm. Phải thông qua phong trào cách mạng của quần chúng để xem xét, phát hiện và lựa chọn những người ưu tú kết nạp, bổ sung vào đội ngũ của mình những người đủ đức và tài; đồng thời, thông qua sự giám sát của nhân dân để đánh giá cán bộ, đảng viên và lấy kết quả công việc, sự hài lòng, sự tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng từng cấp ủy, từng tổ chức và từng cán bộ, đảng viên cũng như chất lượng cả đội ngũ./. Gia Khánh Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản
| 20/06/2022 7:00 SA | Đã ban hành | | Ý chí, khát vọng xây dựng Tổ quốc văn minh, cường thịnh, hạnh phúc | Ý chí, khát vọng xây dựng Tổ quốc văn minh, cường thịnh, hạnh phúc | Với ý chí, khát vọng lớn lao và tư duy sáng tạo, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước bằng cách "xem người ta làm thế nào để rồi trở về giúp đồng bào mình". Người đi tìm con đường đúng đắn, phù hợp, không cầu viện, thể hiện ý chí tự lực, tự cường, khát vọng lớn lao, tầm nhìn thời đại. Người ra đi với khát vọng lớn lao: "Tìm tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi". Sau khi đi qua nhiều nước, thâm nhập cuộc sống, đấu tranh của các dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, Người rút ra kết luận: Trên thế giới hàng tỷ người này, các dân tộc, màu da khác nhau, ngôn ngữ khác nhau nhưng chỉ có hai hạng người đó là kẻ đi áp bức và người bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc đứng về phía những người bị áp bức và bênh vực, bảo vệ họ.
|  Trung tâm Hội nghị quốc gia, nơi diễn ra Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Ảnh Văn Dương.
Đi qua Pháp, Mỹ, Anh, rồi lại trở về Pháp, tại Paris, năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu về Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Ngày 18/6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi Bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles ký tên Nguyễn Ái Quốc, đòi những quyền tự quyết dân tộc là sự kiện thức tỉnh tất cả các dân tộc Đông Dương, làm rung động bầu trời đen tối Việt Nam bấy lâu nay. Suốt mấy chục năm hoạt động sôi nổi, đầy gian khổ ở nước ngoài trong sự kham khổ, thiếu thốn, đe dọa ve vãn, lôi kéo, săn lùng, tù đầy của kẻ thù, Nguyễn Ái Quốc luôn sắt son một ý chí: "Cái tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập. Người nhiều lần khẳng định: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"… Ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải thức tỉnh đồng bào, đánh thức toàn dân tự mình mà giải phóng cho ta; tự mình mà thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Nguyễn Ái Quốc đọc được toàn văn tác phẩm "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin, Người sung sướng nhận thấy: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta". Cùng với đó là kết quả hành trình trải nghiệm sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc trong những hoạt động của Quốc tế Cộng sản, của Đảng Cộng sản Pháp, hâm mộ Cách mạng Tháng Mười Nga và nhiều hoạt động chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"(1). Tìm thấy con đường cứu nước sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể là cuộc cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin bằng nhiều cách: Tổ chức bồi dưỡng cán bộ, viết sách, báo… làm cho các tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn về trách nhiệm tự giải phóng mình. Ngày 3/2/1930, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh chiến lược: đánh đuổi đế quốc, đánh đổ phong kiến, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc cùng Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do. Cùng với việc phân tích, nắm vững thời cơ thế giới và trong nước, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang, động viên lực lượng của toàn dân. Tháng 8 năm 1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Hồ Chí Minh có thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dạy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(2). Hưởng ứng lời kêu gọi non sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước một lòng cùng nhau đứng dậy làm cuộc cách mạng Tháng Tám lay trời chuyển đất thành công, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á do nhân dân làm chủ. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời là thành quả cuộc đấu tranh kiên cường của cả dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Đó là kết quả của ý chí tự lực tự cường, khát vọng độc lập tự do phát triển đất nước của Hồ Chí Minh được cả nước noi theo. Người khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, độc lập, tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người dân. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách, thế nước như ngàn cân treo sợi tóc. Đó là nạn đói, nạn dốt, giặc ngoại xâm… Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa thể hiện ý chí, nghị lực, bản lĩnh vượt qua những thử thách quyết liệt để thực hiện khát vọng giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh dân tộc. "Không có gì quý hơn độc lập tự do"; "Thà hy sinh tất cả chứ quyết không chịu mất nước" là ý chí, khát vọng của Người được hun đúc, bùng dậy từ truyền thống yêu nước hàng nghìn năm cũng như sức mạnh của mọi người dân toàn dân tộc Việt Nam kiên quyết đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo kết hợp chặt chẽ kháng chiến và kiến quốc với ý chí, niềm tin, khát vọng: "Kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành". Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta, bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đuổi sạch bóng quân thù, thực hiện khát vọng Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng phồn vinh hạnh phúc. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn lại trải qua cuộc chiến tranh kéo dài, đi lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng và nhân dân ta tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo, tranh thủ sự hỗ trợ giúp đỡ của bạn bè, các nước đã có hình thức, bước đi thích hợp, vượt qua muôn vàn gian khó trở thành nước tiến bộ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tiếp theo việc thực hiện những tư tưởng của Người, Đảng và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới suốt hơn 35 năm qua đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: "Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".  Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trình bày Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và các văn kiện trình Đại hội. (Ảnh: TTXVN)
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bước vào thế kỷ XXI, hội nhập với thế giới hiện đại, thời kỳ công nghệ 4.0 cùng biết bao nhiêu biến động ở trong nước và quốc tế khó lường. Để vượt qua những khó khăn thách thức của thời đại, đưa dân tộc ta phát triển phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc trên thế giới theo tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung vào những nội dung chính như sau: Một là, tiếp tục đi sâu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Cùng với việc tiếp tục học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách toàn diện, đúng đắn, đầy đủ, nghiêm túc, vấn đề đặt ra có tính chiến lược là đặc biệt nhấn mạnh đi sâu, hiểu kỹ, để suy nghĩ, làm theo, tạo cho mình phong cách, lối sống có ý chí, nghị lực, bản lĩnh thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấu hiểu ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh về phát triển đất nước trong suốt chặng đường lịch sử đầy bão táp, mỗi cá nhân sẽ tự xây dựng, bồi dưỡng, hình thành củng cố niềm tin vững chắc cho ý chí tự lực, tự cường, khát vọng cho mình góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Chỉ có học tập, làm theo một cách tự nguyện, tự giác, chân thành, thực tâm với ý chí tự lực, tự cường, khát vọng của Hồ Chí Minh trong mỗi cá nhân có kết quả, mới tạo sức mạnh vô song đưa đất nước ta đi nhanh, đi mạnh, đi vững chắc trong mỗi bước đường tới phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Kiên quyết khắc phục lối học hình thức, bề ngoài, để có chứng chỉ bằng cấp… Hai là, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mở rộng các quan hệ toàn cầu. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người lãnh đạo Đảng và nhân dân ta tiến hành thắng lợi các cuộc cách mạng vĩ đại đều gắn với cách mạng thế giới. Nhưng cốt lõi, sức sống tư tưởng của Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam vẫn là "tự ta giải phóng cho ta"; là ý chí tự lực, tự cường; là không cầu viện, dựa dẫm vào bên ngoài mà tự lực cánh sinh là chính. Ba là, quyết tâm thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, biến các mục tiêu thành hiện thực, nâng cao đời sống nhân dân. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng như các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, của các cấp uỷ Đảng đều xác định những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể đưa nước ta tiến lên xây dựng một Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc; một Việt Nam hùng cường, một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã luôn là khát vọng mãnh liệt của bao thế hệ lãnh đạo và người dân Việt Nam. Khát vọng ấy đã hiệu triệu, khơi dậy lòng yêu nước, hun đúc tinh thần đoàn kết và sưc smạnh của nhân dân toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử trong quá trình bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước. Thành tựu hơn 35 năm đổi mới là kết quả đáng tự hào nhưng cũng đặt ra những kỳ vọng, những trách nhiệm, những thách thức lớn lao cùng với những đòi hỏi cụ thể trước mắt, lâu dài đối với mỗi người dân Việt Nam. Vì vậy, khát vọng phát triển Việt Nam giàu mạnh hùng cường lại càng mãnh liệt và sục sôi hơn bao giờ hết. Để biến khát vọng thành hiện thực, chúng ta phải thấm sâu ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận rõ con đường phía trước, thấy được những khó khăn, thách thức, thuận lợi, thời cơ để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược trong từng giai đoạn 5 năm, 10 năm, 20 năm, 30 năm tiến tới tầm nhìn năm 2045. Đây là sự chỉ đạo của Đảng có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới của đất nước, định hướng tương lai, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước. Tầm nhìn cũng khẳng định đường lối chiến lược cách mạng, bảo đảm tính kế thừa và phát triển, tính liên tục xã hội ở nước ta; bảo đảm tính khoa học, khả thi và thực tiễn, là tâm huyết, trí tuệ, niềm tin của "ý Đảng, lòng dân". Chiến lược phát triển tổng thể trong giai đoạn tới là phát triển nhanh, mạnh, bền vững, bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó chú trọng vào bốn trụ cột chính gồm: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Khơi dậy ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thực hiện tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự thống nhất, bất biến trong tư tưởng, tình cảm, ý chí, hành động trong toàn Đảng, toàn dân nước ta. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, niềm tin và ý chí đồng lòng của toàn dân là nhân tố quan trọng nhất, có tính quyết định để đạt tới mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Càng đi sâu vào công cuộc đổi mới, hội nhập với thế giới, càng đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp, nảy sinh, thì sự hội tụ "ý Đảng, lòng Dân" và tấm gương về ý chí, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại càng thể hiện rõ ánh sáng chỉ đường, củng cố niềm tin vững chắc cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn. Mục tiêu phát triển tổng quát là cơ sở bảo đảm sự kiên định, ý chí tự lực tự cường và khát vọng lớn lao về định hướng phát triển đất nước theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm sự nhất quán, kết nối, kế thừa và phát triển các chủ trương, đường lối phát triển đất nước. Để khơi dậy ý chí, khát vọng của mọi cán bộ, các tầng lớp nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thường xuyên bám chắc các mục tiêu chiến lược trong quá trình phát triển của Việt Nam để góp phần thực hiện thiết thực, hiệu quả, đó là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc, phát huy ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; 3) Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; Phấn đấu giữa thế kỷ thứ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa./. Gia Nguyên Theo Tạp chí Tuyên giáo
| 15/06/2022 7:00 SA | Đã ban hành | | Ban CHQS huyện Đức Huệ tiếp tục lãnh đạo chỉ đạo xây dựng cấp ủy và đội ngũ đảng viên đạt hiệu quả | Ban CHQS huyện Đức Huệ tiếp tục lãnh đạo chỉ đạo xây dựng cấp ủy và đội ngũ đảng viên đạt hiệu quả | Qua 3 năm thực hiện mô hình "cán bộ, đảng viên dìu dắt quần chúng và cấp dưới" gắn với thực hiện mô hình "Chi bộ 5 tốt, đảng viên 5 tốt" trong Đảng bộ lực lượng vũ trang huyện, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Quân sự huyện Đức Huệ đã tập trung quán triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết, hướng dẫn của trên về tổ chức hoạt trong đơn vị thật chặt chẽ, nghiêm túc, triển khai kế hoạch, hướng dẫn thực hiện ở các cấp đạt kết quả tốt.
|
Qua đó, nhận thức của các cấp ủy, chi bộ từng bước được nâng lên, luôn bảo đảm an toàn trên các mặt công tác của đơn vị và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện "mẫu mực, tiêu biểu"; cán bộ, đảng viên luôn đoàn kết, thống nhất, tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm từng bước được nâng lên rõ rệt. Kế thừa và phát huy những kết quả đạt được, để công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong xây dựng cấp ủy và đội ngũ đảng viên đạt hiệu quả cao, trong thời gian tới, Đảng ủy, Ban Chỉ huy Quân sự huyện Đức Huệ tiếp tục tổ chức quán triệt, giáo dục nắm vững mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tổ chức tổ chức hoạt động các mô hình tại đơn vị; các kế hoạch, hướng dẫn của trên. Đồng thời, nâng cao vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, cán bộ chính trị và người chỉ huy trong quán triệt, triển khai, hướng dẫn tổ chức hoạt động. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ có nhận thức đúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tổ chức hoạt động các mô hình trong đơn vị, tạo được sự đồng thuận, thống nhất trong tổ chức thực hiện. Thường xuyên kiểm tra chấn chỉnh kịp thời các cấp ủy, chi bộ hoạt động kém hiệu quả, tìm ra nguyên nhân, phương hướng khắc phục; đồng thời trao đổi, rút kinh nghiệm, đề xuất những cách làm hay, tổ chức bồi dưỡng, làm điểm đối với cấp ủy, chi bộ thực hiện mô hình có hiệu quả trong đảng bộ. Tổ chức sơ kết chặt chẽ, gắn trách nhiệm rõ ràng, xem mô hình là một trong những tiêu chí để phân tích, chất lượng đảng viên theo từng tháng, từng năm và kịp thời biểu dương, động viên những cán bộ, đảng viên có cách làm hay, hiệu quả; kết hợp cùng các mô hình khác, phong trào thi đua để xét đề nghị khen thưởng theo quy định. Phát huy vai trò trách nhiệm của cấp ủy, ý thức tự giác của đảng viên trong chi bộ, nêu cao tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, bồi dưỡng nâng cao chất lượng định hướng duy trì hoạt động và ghi chép tổng hợp nội dung sinh hoạt cho nòng chốt, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Kim Tiến
| 13/06/2022 4:00 SA | Đã ban hành | | Tất cả do dân, vì dân | Tất cả do dân, vì dân | Tư tưởng Hồ Chí Minh, nói ngắn gọn là vì quyền lợi của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Tiếp cận dưới góc độ "dân là dân nước, nước là nước dân", nói thật ngắn tư tưởng Hồ Chí Minh là vì dân và do dân.
| Dân thụ hưởng. Trong công cuộc đổi mới, "dân thụ hưởng" là một trong những khía cạnh quan trọng trong phương châm của Đảng. Đảng ta nhấn mạnh bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới; không để ai bị bỏ lại phía sau. Đó là sự trở lại đích thực với tư tưởng Hồ Chí Minh về dân thụ hưởng.
 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hội nghị phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc vận động: Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu (Cuộc vận động ba xây, ba chống), 27/7/1963.
Ngay sau cách mạng thành công, xác lập thể chế Dân chủ Cộng hòa, Bác nói rõ mục đích của nước Việt Nam mới là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Nước thuộc địa mất độc lập thì trước hết phải giành cho kỳ được độc lập. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Chính quyền về tay nhân dân, Bác tuyên bố trước các nhà báo trong nước và thế giới rằng cả đời Người chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Bằng một tư duy tích cực, khẳng định, ba từ "ai cũng có" nói lên tất cả suy tư, trăn trở và hành động có trách nhiệm của Bác trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến tận cuối đời. Xuất phát từ quan điểm không có gì quý bằng nhân dân; không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân; bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, có dân là có tất cả; dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong… Bác thường xuyên căn dặn cán bộ, đảng viên phải hiểu thấu nước ta là nước dân chủ, Đảng và Chính phủ là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Nước dân chủ thì bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy, cũng phải hết sức làm. Trong kế sách kiến quốc ngay sau Tuyên ngôn Độc lập, Bác nêu lên sáu nhiệm vụ cấp bách liên quan tới ích quốc lợi dân phải thực hiện ngay là giải quyết nạn đói, nạn dốt, tổ chức Tổng tuyển cử để dân được hưởng quyền tự do dân chủ, thực hành cần kiệm liêm chính, bỏ các thứ thuế vô nhân đạo, tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết. Đó không chỉ là câu chuyện của gần 80 năm trước mà còn vẹn nguyên giá trị đến tận hôm nay. Sau này, trong cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, khẳng định dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ, đúc lại một cách ngắn gọn về mục đích và động lực giúp cho nước tự do độc lập, Bác nói chúng ta phải thực hiện ngay làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành. Trước lúc đi xa, trong những lời dặn lại cuối cùng, Bác nhấn mạnh Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Trong kế hoạch đó, đầu tiên là công việc đối với con người. Người dặn Đảng và Chính phủ quan tâm không sót một ai, trước hết là phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, không để họ bị đói rét. Con người Bác đề cập tới không chỉ là đồng bào nông dân, chiến sĩ trẻ trong lực lượng vũ trang, những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình, cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ… mà cả những nạn nhân của chế độ xã hội cũ thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục vừa pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lương thiện. Điểm nhấn ở đây như cách nói trong đổi mới là quan tâm tới người dân không chỉ "con cá" mà quan trọng là "cần câu". Điều đó in đậm trong Di chúc của Bác hơn nửa thế kỷ trước. Người dặn phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh". Đảng và Chính phủ phải chọn một số ưu tú, trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang cho họ đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc, tạo nên đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều quan trọng nhất, có ý nghĩa lớn nhất mang giá trị trường tồn không nằm ở lời dặn mà ở hành động. Bác là hiện thân sống động của những lời dặn. Người là tấm gương sáng chói của việc nêu gương, nói đi đôi với làm mà ngày nay người đứng đầu Đảng ta thường nói sự gương mẫu của Trung ương là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Từng đồng chí Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải tự giác, gương mẫu, nói đi đôi với làm. Không đầy hai tháng trước lúc vĩnh biệt chúng ta, trong buổi tiếp, trả lời phóng viên báo Granma (Cuba), với khẳng định "tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi", Bác nói "mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi". Bác của chúng ta là như thế. Cả đời không dính líu gì với vòng danh lợi; không có một chút gì riêng tư cho mình. Về việc riêng, Người viết trong Di chúc "suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa". Dân quyết. Xuất phát từ nhận thức về đặc điểm và vai trò của nhân dân, Bác nói đến dân quyết nhiều vấn đề quan trọng. Về đặc điểm, dân nhiều tai mắt, cái gì họ cũng nghe, cũng thấy. Họ là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. Họ hay so sánh - so sánh bây giờ và thời kỳ đã qua, so sánh từng việc và toàn bộ phận - và so sánh đúng. Do so sánh họ thấy chỗ khác nhau và mâu thuẫn. Từ đó họ kết luận và đề ra cách giải quyết đúng. Về vai trò của dân, Bác nói cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải của cá nhân anh hùng nào. Không có nhân dân thì Đảng và Chính phủ không đủ lực lượng. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn. Một nét đặc sắc trong tư tưởng của Bác là cùng với đường lối của Đảng, Người nói tới đường lối nhân dân với nội hàm đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, liên hệ với nhân dân, bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân, tự phê bình trước nhân dân, hoan nghênh nhân dân phê bình mình, học hỏi nhân dân, gương mẫu để nhân dân noi theo. Nói đến Đảng chủ yếu là tổ chức, lãnh đạo và đoàn kết lực lượng nhân dân. Nói đến dân là nói đến sức dân, trí dân, quyền dân, lòng dân, khôn khéo, hăng hái, anh hùng, trung thành với Đảng. Đảng biết phát huy "tố chất dân" cách mang mới thành công. Theo Bác, nhờ tố chất đó mà dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra. Không phải ngẫu nhiên mà trong những dòng cuối cùng dặn lại Đảng, khi nói tới việc để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi, giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, Đảng cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân. Vậy là trong thực tiễn cách mạng, có một vấn đề trọng yếu mà đôi khi chúng ta chưa thật sự quan tâm, đó là dân giải quyết đúng, gọn gàng, hợp lý, công bình. Theo Bác, dân giải quyết hợp lý, công bằng nhiều vấn đề trọng đại của cách mạng, của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Dân giải quyết là một nguyên tắc trong cách lãnh đạo. Bác chỉ rõ nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp lý thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta. Trong đổi mới, Đảng ta xác định vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong bốn kiên định căn bản, trong đó có kiên định vấn đề dân quyết. Một trong những nội dung của Quy chế dân chủ ở cơ sở được nêu trong Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18-02-1998 là quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn như huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi, các khoản đóng góp, lập các loại quỹ. Trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", ở vế "nhân dân làm chủ" đã có một bước tiến dài trong các văn kiện Đại hội XIII như phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức; dân giám sát và lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. Với tinh thần và thái độ kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, thời gian tới, rất cần những tìm tòi, nghiên cứu mới có tính đột phá, sáng tạo về vấn đề dân quyết mà gần đây trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có đề cập. Một trong những điều ông nói tới là Đảng phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Sức mạnh của nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển. Đó chính là để tư tưởng, chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống./. Gia Khánh Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản
| 10/06/2022 7:00 SA | Đã ban hành | | Tấm lòng nhân văn, bác ái của Chủ tịch Hồ Chí Minh | Tấm lòng nhân văn, bác ái của Chủ tịch Hồ Chí Minh | Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực cách mạng. Người ta thường cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động - hành động nhằm giải phóng con người.
|  Bác Hồ với các cháu thiếu nhi ở Chiến khu Việt Bắc, năm 1950. (Ảnh: Nguyễn Hồng Nghi)
Yêu thương và quý trọng con người là một trong những đức tính đặc sắc nhất của đạo đức Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách "Học tập đạo đức Hồ Chí Minh"(*), đồng chí Võ Nguyên Giáp có bài viết nêu rõ: "Nghiên cứu cuộc đời và tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rất rõ ở Người chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái, truyền thống văn hóa phương Đông, phương Tây và sự phát triển chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác. Sự tổng hợp đó hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - hiện thân cao nhất của chủ nghĩa nhân văn hiện thực của người Việt Nam trong thời đại cách mạng giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa". Đồng chí còn viết cụ thể: "Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở tấm lòng thương yêu con người, thương yêu nhân dân hết sức rộng lớn, sâu sắc. Người đã từng khái quát về triết lý cuộc sống: "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ và bị áp bức". Cùng với ý ấy, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: Như phần nhiều các nhà hiền triết cổ kim Đông Tây, thương người là một đức tính lớn của Cụ Hồ, nó quán triệt mọi lời nói, việc làm của Cụ từ ngày Cụ hoạt động cách mạng... Suốt sáu mươi năm, một lòng thương người, vì người, một lòng nhân ái. Giáo sư đặt câu hỏi: "Vậy nếu thương người là nhân ái thì nhân ái của Cụ Hồ có gì khác với nhân ái Khổng, Mặc chăng hay chỉ là một?". Và tự trả lời: "Có phần khác không nhỏ". Thương người (của Cụ Hồ) là biết xót xa đến thân phận những người cùng khổ nhất trong số những người cùng khổ,... cũng là thương các dân tộc mang xiềng xích thực dân. Thương không phải là tỏ mối thông cảm từ trên và từ ngoài mà tìm cách làm cho người lao khổ và dân tộc bị áp bức tự mình cởi ách ngựa trâu, chứ không phải bằng cách mòn bánh xe, móng ngựa để du thuyết các vương hầu. Mỗi thời đại một khác. Đi vào cách mạng, Người đặt vấn đề tự do và vấn đề hạnh phúc đi đôi. Có người Mỹ nói Cụ Hồ vừa là Washington vừa là Lincoln. Đúng là như vậy. Mà Cụ Hồ còn đi xa hơn nữa trên hướng nhân ái thiết thực. Vẫn theo lời đồng chí Võ Nguyên Giáp: Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực cách mạng. Người ta thường cho rằng Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh là một nhà nhân văn hành động - hành động nhằm giải phóng con người. Thủ tướng Phạm Văn Đồng - người học trò xuất sắc cũng là người cộng sự gần gũi của Bác Hồ - đã viết rất ân tình: Những tư tưởng lớn của Hồ Chủ tịch là những tình cảm lớn. Bác Hồ là "muôn vàn tình thương yêu" đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình thương yêu đó, có chỗ cho mọi người, không quên, không sót một ai. Thương yêu và quan tâm chăm sóc mọi tầng lớp đồng bào, trai gái, già trẻ, đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, kiều bào ở nước ngoài. Bác Hồ đặc biệt ân cần chăm lo các chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân, là những người chiến đấu quên mình trên tiền tuyến; các cháu thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, là lớp người thừa kế sự nghiệp cách mạng; chị em phụ nữ anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang trong sản xuất và chiến đấu; đồng bào các dân tộc ít người, đã và sẽ tiếp tục có cống hiến cao quý vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trong lòng Bác, đồng bào miền Nam, thành đồng Tổ quốc, chiếm một vị trí đặc biệt,... Đã có biết bao câu chuyện sống động về tư tưởng nhân văn, lòng thương yêu con người và đức hy sinh cao cả của Bác, kể sao cho xiết. Cả cuộc đời làm cách mạng, Bác "chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân tộc ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Bác "ăn không ngon ngủ không yên khi đồng bào còn chịu khổ". Bác nêu tấm gương kính già, yêu trẻ. Kính già đến mức gửi thư chúc một phụ lão cứu quốc ở tuổi thượng thọ đã không tổ chức lễ mừng mà đem số tiền 500 đồng tiết kiệm được quyên vào Quỹ Kháng chiến, Hồ Chủ tịch tự xưng mình là cháu: "Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ và trân trọng chúc cụ sống lâu và hoàn toàn mạnh khỏe". Yêu trẻ đến mức Tết Trung thu nào cũng có lời thơ chúc. "Trung thu trăng sáng như gương/ Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng". Và các cháu thì hát vang: "Không ai yêu Bác Hồ Chí Minh bằng chúng em nhi đồng". Với đồng bào các dân tộc, Bác từng nói: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê-đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau". Với đồng bào các tôn giáo, bao giờ Bác cũng nêu lên cái tinh hoa của giáo lý. Với đồng bào theo đạo Thiên chúa, Bác viết: "Kinh thánh có câu: Ý dân là ý Chúa. Con đường yêu nước mà đồng bào đang đi là hoàn toàn đúng." Với đồng bào theo đạo Phật, Bác viết: "Đồng bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam đều cố gắng thực hiện lời Phật dạy là: Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha" (Đem lại lợi ích và vui sướng cho mọi người. Quên mình vì người khác). Với những người lầm đường, lạc lối, Người cũng mở lượng khoan dung: "Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Phải thực hành chữ BÁC ÁI". Nhà thơ Tố Hữu nói tự đáy lòng mình: Người là Cha, là Bác, là Anh Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ Bác sống như trời đất của ta Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa Tự do cho mỗi đời nô lệ Sữa để em thơ, lụa tặng già. Và: Bác ơi, tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông mọi kiếp người! Tư tưởng nhân văn hiện thực, tình yêu thương bao la và cuộc sống bình dị của Bác có sức cảm hóa lớn. Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng cao đẹp của một nhân cách Con Người tầm cỡ thế giới. Nhà báo Jean Roux trong báo Chiến đấu (Pháp) viết: "Từ ba mươi năm nay, trong số các nhân vật mà tôi gặp được, chắc chắn Cụ Hồ là đáng khâm phục nhất. Cụ là người hoàn toàn đáng được mọi người ca ngợi, bởi vì Cụ đã kết hợp đến mức nhuần nhuyễn phi thường chủ nghĩa anh hùng với đầu óc sáng suốt, lòng yêu nước tuyệt vời, tinh thần cách mạng trong sáng, thái độ cứng rắn trước cuộc sống với lòng nhân đạo đối với con người". Nhà báo Montaron trên báo Bằng chứng Thiên chúa giáo, cũng viết: "Cụ Hồ Chí Minh là một trong những chiến sĩ lần đầu tiên của thế giới thứ ba, của các dân tộc nghèo đói nhằm thèm khát một cuộc sống cho ra người… Cụ đã đem hết sức mình để mang lại cơm ăn nước uống cho những ai đói khát. Cụ đã bênh vực cho những người yếu hèn và mang lại nhân phẩm cho những người nghèo khổ". Burchett, nhà báo Australia nổi tiếng, nhận xét: Nói tới một người mà cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có một ai khác ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh… Người ta không thể trở thành một Hồ Chí Minh nhưng ở Cụ Hồ, mỗi người có thể học một điều gì làm cho mình tốt hơn. Và thật cảm động, Thủ tướng Jawaharlal Nehru trong cuộc tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Ấn Độ (năm 1958) đã nói một cách chân tình: "Chúng ta đã được tiếp xúc với một người. Người đó là một phần của lịch sử châu Á. Ngoài phần gặp gỡ một con người vĩ đại, chúng ta đã gặp một mảng lịch sử của lịch sử. Do đó, có lẽ chúng ta không chỉ được tăng thêm về suy nghĩ mà còn được tăng thêm cả về tầm vóc". Sẽ không thừa nếu nhắc lại: Năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức UNESCO đã vinh danh Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới./. Gia Nguyên Theo Tạp chí Tuyên giáo
| 01/06/2022 7:00 SA | Đã ban hành |
|